Ngày đầu thành lập, Đoàn có 12.695 cán bộ, chiến sĩ, chiến đấu và phục vụ tại các binh trạm 36, 37, 50, 51 và trung đoàn 4 công binh; phạm vị hoạt động từ ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia; từ Plây Khốc đường 49 qua ngã ba Phi Hà - Tà Ngâu, lên Tây Nguyên rồi xuống miền Đông Nam Bộ, bằng đường sông Mê-công, Sê-công, Sê-san, Sê-ca-mán đi Stung-treng và Ka-ra-chi-ê; Đoàn 470 là điểm cuối cùng của tuyến chi viện chiến lược của Binh đoàn Trường Sơn (Đoàn 559) cho miền Nam, Lào và Cam-pu-chia. Trong mùa khô 1970 - 1971, Đoàn đã vận chuyển vào chiến trường Nam Bộ hàng chục ngàn tấn đạn pháo lớn, đạn B40, B4, thuốc nổ dẻo, đưa hàng ngàn cán bộ Lào, Cam-pu-chia về nước hoạt động, phối hợp chiến đấu cùng bộ đội ta giải phóng các tỉnh Stung-treng, Ka-ra-chi-ê, Nát-ta-na-ki-ri, Môn-đun-ki-ri bàn giao cho bạn…
Chuẩn bị cho các chiến dịch từ 1972 – 1975, mặc dù bị không quân địch đánh phá dữ dội, ác liệt, Đoàn đã đưa hàng triệu tấn hàng hóa, hàng vạn quân cùng xe tăng, trọng pháo vào các chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Riêng vận chuyển vượt đưòng 9 là 12.708 tấn vũ khí, vượt sông Bạc giao 6.384 tấn hàng hóa, qua sân bay Chà Vằn là 1.150 tấn đạn dược. Ngoài ra, đội thu mua của đồng chí Đức Phương, còn khai thác xăng dầu, lương thực, mở xưởng may mặc, tăng gia sản xuất tại chỗ được 31 tấn sắn, 1.936 tấn thịt, 21.150kg rau xanh, 4.246kg măng rừng và 826kg cá…
Vừa phục vụ chiến dịch, vừa chiến đấu, Đoàn đã tiêu diệt 5.695 tên địch, bắt sống 614 tên, bắn rơi 364 máy bay (trong đó có 310 chiếc trực thăng), thu 24 khẩu pháo, 6 xe tăng và 91 xe các loại. Sau giải phóng Buôn Ma Thuột, Đoàn cùng Đoàn B20 và Quân khu 5, Quân đoàn 3 tiến công hướng Plây Cu, Chơn Thành, Nha Trang, Khánh Hòa rồi tâp kết tại Xuân Lộc tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lich sử.
Đất nước thống nhất, Đoàn 470 trở lại Tây Nguyên để phát triển kinh tế, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa miền đất đỏ ba-zan đã chở che đơn vị những ngày đầu.
Nguyễn Trọng Nghị