Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các thành viên Chính phủ Liên hiệp lâm thời Việt Nam.

Báo tháng 9 - Ngày 25-8-1945, theo lệnh Cụ Hồ, ông Võ Nguyên Giáp đưa quân về Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, và trong vòng 10 ngày chế độ thực dân cùng tàn dư phong kiến đã chấm dứt. Cuộc cách mạng bùng lên như một cơn lốc. Chỉ trong vài ngày, sự nhục nhã và nỗi khổ đau của kiếp nô lệ đã bị cuốn sạch. Sự hồi sinh thật phi thường. Hôm qua, thành phố còn tê liệt vì nạn đói, bệnh dịch và nỗi kinh hoàng, còn hôm nay cuộc sống đã hồi sinh trên từng ngõ phố. Bao trùm là bầu không khí trong sạch và phấn chấn. Cờ đỏ sao vàng tràn ngập phố phường. Cách mạng thực sự là ngày hội cho những người bị áp bức.

Ngày 29-8, Cụ Hồ thành lập chính quyền đầu tiên. Để thu hút được nhiều tổ chức, dân tộc khác nhau, Cụ Hồ đã thu nhận cả những nhân vật phi Mác-xít, những nhân vật độc lập và tôn giáo.

Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Cụ Hồ xuất hiện lần đầu tiên trước quốc dân đồng bào như một vị lãnh tụ vĩ đại: một ông già trán cao, mắt sáng, đầu đội chiếc mũ đã cũ, mặc bộ ka-ki cổ cao, chân đi dép cao su. Cụ đọc Tuyên ngôn Độc lập và đã trích câu "Mọi người sinh ra đều có quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc" trong Hiến pháp nước Mỹ. Tiếp đó là bài phát biểu của ông Võ Nguyên Giáp về các vấn đề kinh tế, chính trị, đối ngoại.

Về phía người Pháp, ngay từ ngày 16-8-1945, trong khi Cụ Hồ còn bận bịu với Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, Đờ Gôn đã bổ nhiệm tướng Lơ Cléc giữ chức Tổng Tư lệnh các lực lượng Pháp tại Viễn Đông và ra lệnh cho ông này triển khai một số đơn vị vào Việt Nam. Đờ Gôn còn bổ nhiệm Đô đốc Đác Giăng-li-ơ giữ chức Cao uỷ Đông Dương. Mười ngày sau, 27-8, tân Cao uỷ phụ trách Bắc Kỳ và Trung Kỳ Xanh-tơ-ni từ Phái bộ Pháp ở Côn Minh nhảy dù xuống Việt Nam... Đến đầu tháng 10-1945, hai tiểu đoàn bộ binh Pháp, một đơn vị Commando và một trung đoàn thiết giáp đã đến Sài Gòn dưới sự chỉ huy của Lơ Cléc.

Ngày 6-9-1945, quân Anh tiến vào Sài Gòn - đây là phân đội thứ 12 của Sư đoàn Ấn Độ dưới quyền tướng Đu-glát Gra-xây. Nhiệm vụ của các lực lượng Anh là giải giáp quân Nhật, duy trì trật tự, giữ thái độ trung lập và không được tái lập chủ quyền của Pháp. Nhưng London nhận thấy rằng người Pháp phải ra tay giải quyết vấn đề, còn lực lượng của quân Anh thì rút đi càng sớm càng hay. Như trút được gánh nặng, tướng Gra-xây bàn giao cho Lơ Cléc. Ngày 23-9, Pháp nổ súng tiến công sài Gòn. Lực lượng Pháp tại Sài Gòn được Anh trang bị vũ khí, quần áo, ngồi trên xe chạy quanh thành phố với trang bị có in hàng chữ: "Vũ khí thuê của Chính phủ Hoa Kỳ".

Trong khi đó, ngày 9-9-1945, gần 200.000 quân Tưởng Giới Thạch dưới quyền tướng Lư Hán đã tiến về Hà Nội. Sự có mặt của đội quân đông đảo này đã làm cho nạn thiếu lương thực trở nên trầm trọng hơn. Chưa kể, họ còn đưa ra những yêu sách ngang ngược, đòi cải tổ và hăm dọa lật đổ Chính phủ Việt Minh.

Trong tình hình đó, Cụ Hồ đã tỏ ra hết sức khôn khéo. Pháp được xác định là “kẻ thù chính”, phải tập trung đấu tranh kiên quyết nhưng mềm dẻo thông qua các cuộc đàm phán trong khi vẫn ráo riết tiến hành các công việc sẵn sàng cho một cuộc chiến lâu dài. Ngày 6-3-1946, với Hiệp định Sơ bộ được ký kết, Pháp công nhận nước Việt Nam mới là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp; quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí… Hiệp định này đã giúp Chính phủ của Cụ Hồ tránh được nguy cơ phải đánh nhau cùng một lúc với nhiều đối thủ và bảo toàn được lực lượng.

Đối với Quốc dân đảng, Cụ Hồ chủ trương “Hoa-Việt thân thiện”, tránh xung đột, nhượng cho họ 70 ghế trong Quốc hội, 4 ghế bộ trưởng cùng một số quyền lợi kinh tế, cung cấp một số lương thực, thực phẩm… Ngày 28-2-1946, Hoà ước Hoa-Pháp được kí kết. Đồng thời, Trung Hoa dân quốc đồng ý cho Pháp đem quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng sẽ rút đi trong thời gian từ ngày 1 đến 15-3, chậm nhất là 31-3. Đổi lại, Pháp phải trả lại cho Tưởng các tô giới ở Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu, Quảng Đông cùng một số quyền lợi khác.

Mặc dù những người lính Quốc dân đảng cuối cùng phải đến ngày 18-9-1946 mới rời Việt Nam, nhưng điều này đã giúp Cụ Hồ loại bỏ được một kẻ thù tàn bạo, hiểm độc để rảnh tay đối phó với Pháp.

Peter M’c Donald (sinh năm 1928) là nhà văn, nhà sử học có tên tuổi. Với vị thế là vị tướng trong quân đội nước Anh, trong 2 cuộc chiến tranh tại Việt Nam, ông có điều kiện tiếp cận với giới lãnh đạo của hai phía. Đặc biệt, ông từng nhiều lần được gặp và đàm đạo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bài viết trên được lược trích từ cuốn “Giap: The victor in Vietnam” (Tướng Giáp: Người chiến thắng ở Việt Nam) của ông, do NXB Norton & Company (New York) ấn hành năm 1993.

Đăng Song