Tuyên truyền kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước, Báo CCB Việt Nam mở chuyên trang “50 năm Đại thắng mùa Xuân 1975- Thống nhất đất nước”. Mở đầu chuyên trang, xin được trích giới thiệu những dòng hồi ký của cố Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về thời khắc mở màn Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
“…Đầu tháng 2, Quân ủy Trung ương phê chuẩn kế hoạch tác chiến của Trị - Thiên. Các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân khu và Quân đoàn 2 ra Hà Nội chính thức nhận mệnh lệnh. Ngày 28-2-1975, đồng chí Thanh Quảng, thay mặt Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên và đồng chí Hoàng Đan, thay mặt Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 ra Bộ báo cáo quyết tâm cuối cùng…
Các đồng chí có mặt rất đúng giờ tại Tổng hành dinh. Cùng dự nghe báo cáo với tôi có các anh Lê Trọng Tấn, Lê Hữu Đức. Với tinh thần phấn khởi, các anh trình bày kế hoạch tác chiến với những mục tiêu, nhiệm vụ còn cao hơn cả những mục tiêu, nhiệm vụ được giao.
Nghe báo cáo xong, tôi hỏi:
- Thế nếu còn thời cơ thuận lợi, các đồng chí đã có kế hoạch phát triển tiến công giải phóng Trị - Thiên - Huế chưa?
Đang có tâm trạng phấn khởi, hai đồng chí tỏ ra lúng túng. Tôi hỏi thêm:
Kế hoạch cơ bản như thế này là được. Nhưng các đồng chí phải làm ngay một kế hoạch phát triển tiến công khi thời cơ thuận lợi, mà mục tiêu của nó là giải phóng Trị - Thiên - Huế. Các đồng chí đã rõ chưa?
Sau giây phút ngỡ ngàng, nét mặt hai đồng chí tươi hẳn lên. Cả hai đồng chí đồng thanh trả lời: Rõ!
Về thời gian mở màn chiến dịch, các đồng chí đề nghị cho lùi thời gian chuẩn bị thêm 5 ngày, tức là đến hết ngày 9-3. Vừa nghe mấy tiếng “9-3”, anh Tấn đứng phắt dậy, giọng gay gắt:
- Trong chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược, hiệp đồng nhiều chiến trường mà các đồng chí muốn bắt đầu tiến công ngày nào cũng được hay sao? Các đồng chí lui lại thì địch đưa sư dù dự bị chiến lược lên Nam Tây Nguyên, hướng chính của ta sẽ bị vỡ, cuộc tiến công sẽ đi đến đâu? Đã bao nhiêu lần mời các đồng chí ra họp, bao nhiêu phái viên vào phổ biến kế hoạch, bao nhiêu điện nhắc nhở mà các đồng chí không hiểu sao?
Cứ thế, anh Tấn nói đi nói lại đến 5 phút.
Hai đồng chí đỏ mặt.
Tôi hỏi:
Ý Bộ Tổng Tham mưu đã rõ, còn Cục Tác chiến thì sao?
Anh Đức phát biểu:
- Lúc này mà lùi lại thì nguy lắm. Nhưng đề nghị Bộ cũng thấy hết khó khăn, nhất là của Quân đoàn 2, đồng chí Nguyễn Hữu An - Tư lệnh vừa đi học ở Liên Xô về. Đề nghị đúng ngày N và giờ G, các trung đoàn chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương của Trị - Thiên đồng loạt nổ súng. Riêng Quân đoàn 2, cho lùi lại 2 ngày. Địch biết Quân đoàn 2 đang ở Trị - Thiên mà chưa có hoạt động thì cũng chưa dám điều sư dù đi.
Nghe đến đây, anh Tấn nói với hai đồng chí:
- Tôi cũng biết các đồng chí khó khăn. Nhưng các đồng chí phải biết chiến dịch của các đồng chí nằm trong chiến cuộc chung của toàn quốc. Vậy thời gian phải hết sức chặt chẽ, không thể ai muốn bắt đầu tiến công ngày nào cũng được…
Quay sang tôi, anh Tấn để nghị:
- Xin anh cho phép các lực lượng Quân khu Trị - Thiên và pháo binh Quân đoàn 2 nổ súng đúng thời gian quy định từ ngày 5-3, còn phần lớn lực lượng Quân đoàn 2 nổ súng sau 2 ngày như đề nghị của Cục Tác chiến.
Tôi đồng ý và chỉ thị Bộ Tổng Tham mưu theo dõi, kiểm tra thực hiện.
Khi hai đồng chí ra về, tôi bảo anh Tấn:
- Gớm, hôm nay anh chính quy quá!
- Thưa anh, nóng nảy là khuyết điểm lớn. Đề nghị Bộ trưởng biểu dương Cục trưởng Cục Tác chiến hôm nay sáng dạ lắm!
Tôi cười: Có vậy mới mở nắp nồi hơi được!
Chưa thật yên tâm. Sáng ngày 3-3, tôi cho đồng chí thư ký ra sân bay Bạch Mai gọi hai đồng chí quay lại gặp tôi, ngay khi máy bay sắp sửa cất cánh. Rõ ràng, dứt khoát, tôi dặn:
- Nhớ rằng chiến dịch này không như các chiến dịch khác. Các đồng chí có thể phát huy sáng kiến đánh thật hay để hoàn thành vượt mức kế họach, nhưng cần chú ý những việc Bộ Tổng tư lệnh đã quy định cụ thể thì tuyệt đối không được linh hoạt, phải chấp hành thật nghiêm. Phải tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, kể cả giải phóng Huế. Tiêu diệt sinh lực địch là rất quan trọng, nhưng làm đường cơ động cũng quan trọng không kém; các đồng chí phải huy động lực lượng mở đường cơ động, vì có đường mới phát triển tiến công thuận lợi được.
Hai đồng chí hứa sẽ hoàn thành tốt các nhiệm vụ Bộ giao, cả về thời gian và khối lượng…
Các bước thực hiện chiến dịch Tây Nguyên phát triển thuận lợi. Qua nắm tình hình và khai thác tin của địch, cơ quan Tác chiến báo cáo:
Ngày 25-2-1975, ta tăng cường hoạt động nghi binh.
Sư đoàn 968 diệt 2 cứ điểm địch trên đường 19 phía tây Plây Ku và bắn vào sân bay Cù Hanh.
Ngày 4-3, Trung đoàn 95A và Sư đoàn 3 (Quân khu 5) tiêu diệt một loạt vị trí, cắt đường 19 ở An Khê. Địch cho biệt động ra dò tìm và bắn pháo vào chỗ nghi có quân ta.
Đêm 3-3, Trung đoàn 25 cắt đường 21 ở phía tây Chư Cúc, diệt một đoàn xe 80 chiếc. Tây Nguyên bước đầu bị cô lập với đồng bằng…
Ngày 7-3, quân ta diệt cứ điểm Chư Xê (bắc Buôn Hồ) trên đường 14.
Ngày 8-3, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 đánh chiếm chi khu quân sự Thuần Mẫn.
Ngày 9-3, Sư đoàn 10 nổ súng đánh chiếm quận lỵ Đức Lập. Trên hướng bắc, ta tiêu diệt quận lỵ Thanh An, áp sát, uy hiếp thị xã Plây Ku.
Thế chiến lược bao vây, chia cắt, cô lập Buôn Ma Thuột đã được cài xong…
* Chiến trường Tây Nguyên chuyển mình, sôi động.
Trận tiến công Đức Lập và tuyến phòng thủ liên hoàn gồm 5 cứ điểm trên đường 14 phía tây nam Buôn Ma Thuột của Sư đoàn 10 và Trung đoàn pháo binh 40 đẩy địch ở đây vào thế nguy ngập. Các căn cứ Núi Lửa, căn cứ 23 của địch lần lượt bị tiêu diệt. Địch dồn lực lượng vào quận lỵ ngoan cố chống cự. Sư đoàn 10 phải dừng lại củng cố lực lượng rồi tiếp tục tiến công, đến hôm sau mới dứt điểm.
Trước tình hình nguy khốn, Phạm Văn Phú - Tư lệnh vùng 2 chiến thuật bay đến Buôn Ma Thuột họp với sư đoàn phó Sư đoàn 23 ngụy và tỉnh trưởng Đắc Lắc. Phú nhận định: Đức Lập không còn khả năng cứu vãn, không cần tăng viện nữa. Trước mắt, Trung đoàn 53 cố gắng giữ cho được ngã ba Đắc Sắc. Nếu ngày hôm sau tình hình khá hơn, sẽ phản kích lấy lại Đức Lập. Trường hợp không trụ nổi thì được phép tự di tản về hậu cứ. “Cộng sản đánh Quảng Đức, uy hiếp Buôn Ma Thuột chỉ để nghi binh tạo điều kiện cho vài ngày tới sẽ tập trung lực lượng đánh vào Kon Tum - Plây Ku. Do vậy, việc chính hiện nay là tăng cường mọi khả năng đối phó với địch ở trọng điểm chính là Kon Tum và Plây Ku”.
Đến thời điểm này, quân ngụy vẫn không biết ý định và hướng tiến công của quân ta. Chúng cho rằng ta uy hiếp Buôn Ma Thuột là nghi binh để đánh Plây Ku và Kon Tum; đánh Đức Lập là để mở thông đường vào Nam Bộ. Từ đó, chúng lo đối phó với ta ở hướng Bắc Tây Nguyên, rút bớt lực lượng ở Nam Tây Nguyên lên tăng viện cho Plây Ku là hướng chủ yếu, vì “Sư đoàn 320 của Việt Cộng vẫn ở Đắc Tô - Tân Cảnh. Ở Buôn Ma Thuột cũng sẽ có hoạt động phối hợp bằng đặc công, pháo kích, nhưng không phải là hướng chính”.
Hoạt động của quân ta trên các hướng nhịp nhàng ăn khớp. Kế hoạch nghi binh chiến lược thực hiện rất thành công. Trong các cuộc đấu trí đầu tiên, bộ tham mưu địch đã phạm sai lầm. Buôn Ma Thuột đã sơ hở lại càng thêm sơ hở.
Trong lúc Quân đoàn 2 ngụy ra sức đối phó với chủ lực ta ở bắc Tây Nguyên, thì vào lúc 1 giờ 55 phút sáng ngày 10-3-1975, trận Buôn Ma Thuột bắt đầu. Trung đoàn đặc công 198 cùng một bộ phận pháo cối nổ súng tiến công, đánh chiếm sân bay lên thẳng Ngã Sáu, cụm kho Mai Hắc Đế, sân bay Hòa Bình. Pháo binh ta từ các trận địa xung quanh Buôn Ma Thuột bắn phá mãnh liệt hậu cứ Sư đoàn 23, sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc, khu doanh trại pháo binh, thiết giáp của địch trong thị xã.
Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Tây Nguyên, có vị trí quan trọng về quân sự… Chọn mục tiêu tiến công chủ yếu là Buôn Ma Thuột, Bộ Thống soái tối cao dự kiến sẽ làm đảo lộn hoàn toàn thế phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam bằng một đòn điểm huyệt. Mới tờ mờ sáng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nhận được điện của anh Văn Tiến Dũng:
“… Ngày 10 tháng 3 năm 1975, ta đã đánh Buôn Ma Thuột. Tình hình diễn biến thế nào, có nhận xét gì lớn, tôi sẽ điện tiếp. Chúng tôi vẫn khỏe. Anh Thiện vào 559 trợ lực tích cực cho chiến dịch này. Mọi yêu cầu đều cố gắng bảo đảm. Quân no, lực lượng lớn, vũ khí trang bị đầy đủ, tinh thần phấn chấn, khí thế cao. Chưa bao giờ mạnh và đánh tập trung lớn ở đây như năm nay. Chúc các anh trong Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương mạnh khỏe. Ký tên: Tuấn”.
Chiến dịch Tây Nguyên mở màn. Tôi trực tiếp chủ trì các cuộc giao ban hằng ngày của Bộ Tổng Tham mưu…
Sáng 10 tháng 3, trong cuộc giao ban thường lệ ở Sở chỉ huy “Nhà Con rồng” mọi người phấn khởi đón tin chiến thắng đầu tiên: Ta đã giải quyết xong quận lỵ Đức Lập, Đắc Song, Núi Lửa, mở thông hành lang chiến lược Bắc Nam. Trận Buôn Ma Thuột đã bắt đầu từ rạng sáng hôm nay, đang phát triển thuận lợi…
Tin từ nhiều nguồn tới tấp báo về. Tại sân bay Ngã Sáu, Trung đoàn đặc công 198 diệt các mục tiêu quan trọng trong sân bay, phát triển nhanh đánh chiếm khu cảnh sát, bệnh viện dã chiến, tạo hành lang thông suốt ở cửa ngõ đông bắc thị xã Buôn Ma Thuột. Các chiến sĩ đặc công nhanh chóng diệt sở chỉ huy khu kho Mai Hắc Đế, mở cửa ở hướng tây bắc, chuẩn bị đường tiến đánh căn cứ Sư đoàn 23 ngụy.
Các đơn vị bộ binh, xe tăng, thiết giáp tranh thủ vượt sông Sêrêpốc, vào chiếm lĩnh các trận địa xuất phát tiến công, hình thành năm mũi nhất tề tiến công vào thị xã.
Cuộc chiến đấu ở khu vực Ngã Sáu diễn ra quyết liệt. Trung đoàn 95b đánh bại cuộc phản công của địch có xe tăng và không quân chi viện.
6 giờ 30 phút sáng ngày 10 tháng 3, dưới sự yiểm hộ của pháo binh chiến dịch, các chiến sĩ Sư đoàn 316 đánh chiếm các mục tiêu trong thị xã Buôn Ma Thuột. Trên hướng tây bắc, quân ta tiến công khu thông tin, khu vận tải, áp sát hậu cứ Sư đoàn 23 ngụy.
Ở hướng đông bắc thị xã, bộ binh ta có xe tăng đi cùng tiến công tiểu khu Đắc Lắc, đến 15 giờ, ta chiếm được tiểu khu.
Ở hướng nam, quân ta tiến công các mục tiêu quân sự và quận lỵ Hòa Bình.
Trong ngày 10 tháng 3, hầu hết các mục tiêu quan trọng trong thị xã, trừ sở chỉ huy Sư đoàn 23, đều bị quân ta đánh chiếm…”*.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Ngày 10 tháng 3 năm 1975, ta đánh Buôn Ma Thuột
___________
*Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Tổng tập Hồi ký”. Nxb QĐND, H. 2011. Tr. 1245-1249.