CCB Lê Ninh (người mặc quân phục) cùng đồng đội c4, thân nhân gia đình giặc lái Mỹ về thăm trận địa cao xạ 12,7mm năm xưa.

Bắn rơi máy bay, bắt giặc lái ngày 6 Tết

Tôi nhập ngũ tháng 5-1965, khi vừa tròn 21 tuổi và được biên chế về đại đội bộ, Đại đội 4 (c4) súng máy cao xạ 12,7mm thuộc Đoàn 22 huấn luyện quân tăng cường Quân khu 4. Sau 3 tháng huấn luyện, Đại đội chúng tôi được bổ sung vào Đoàn 559. Đầu năm 1966, đơn vị được chuyển đến đóng quân tại thôn Xuân Sơn, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình có nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường 20 Quyết Thắng và bảo vệ phà Xuân Sơn luôn thông xe vào chiến trường.  

Vào lúc 14 giờ 24 phút, ngày 26-1-1966, nhằm  ngày mồng 6 Tết Bính Ngọ, hai chiếc RF101 bay từ phía biển vào trinh sát bến phà. Chiếc thứ nhất lao xuống thấp, với đường bay lắt léo. Cả đơn vị đồng loạt nổ súng. Máy bay bốc cháy cách trận địa khoảng 2km, một chiếc dù màu trắng, đỏ bung ra khỏi máy bay. Cả trận địa reo hò vang dội, tiếng vọng cả núi rừng. Ngay sau đó chiếc thứ hai cũng lao xuống, đơn vị tiếp tục nả đạn. Chiếc này cũng bốc cháy rơi cách trận địa khoảng 15 đến 17km.

Đơn vị cử 7 đồng chí, do Trung đội trưởng Đinh Xuân Ngô làm Tổ trưởng đi bắt tên giặc lái. Sau đó vài phút có khoảng 10 máy bay các loại: RF101, F105, F10B, AD, trực thăng quần đảo liên tục xung quanh vị trí máy bay rơi, hòng cứu đồng bọn. Cuộc vây bắt tên giặc lái diễn ra trên núi Lèn Hà của dãy Phong Nha rất khẩn trương. Sau gần 1 giờ leo núi, các chiến sĩ Đại đội 4 đã tóm gọn tên giặc lái. Hắn mặt tái mét, run bần bật. Khi ta bắt được giặc lái nhảy dù, bọn giặc lái trên máy bay không liên lạc được với tên nhảy dù, đành cút thẳng.

Khi bộ đội vừa đưa tên giặc lái xuống núi, người dân khu vực Phong Nha ùa đến vây quanh, đòi “hỏi tội” kẻ đã ném bom, bắn phá gây biết bao mất mát đau thương cho người thân... Nhưng được cán bộ c4 và lãnh đạo địa phương can ngăn, giải thích chính sách khoan hồng với tù binh nên mọi người không ra tay, rồi ai về nhà nấy.

Khoảng 18 giờ, tên tù binh được đưa về giao cho Ban Chỉ huy đại đội để hỏi cung. Rất may, Đại đội trưởng Dư Văn Tùy biết tiếng Nga và tên giặc lái Mỹ cũng biết tiếng Nga. Qua hỏi cung, tên giặc lái cho biết tên nó là Wilmer Newk Grubb (Grap), sinh năm 1932. Hiện đã có vợ, ba con trai và còn một đứa đang trong bụng vợ. Tên giặc lái còn cho biết, máy bay hắn chỉ có một người lái, đi trinh sát mục tiêu để nắm chính xác tọa độ bến phà, mục tiêu pháo phòng không nhằm báo cho máy bay chiến đấu đến thả bom. Chúng cứ tưởng bộ đội ta chủ quan, lơ là mấy ngày vui Tết, liều lĩnh sà thấp.

Đang bị hỏi cung, thấy tôi đưa bi đông nước cho cho các đồng chỉ huy đại đội. tên giặc lái nuốt nước bọt ừng ực. Biết hắn đang khát nước, tôi liền đưa bi đông nước cho hắn. Không chờ ai nói gì, Grap tu ừng ực, dốc ngược bi đông lên. Nhìn hắn như người sắp chết khát. Uống xong Grap nhìn tôi gật đầu cảm ơn lia lịa, rồi đưa mắt nhìn các đồng chí trong Ban Chỉ huy đại đội với vẻ thán phục.

Sau khi hỏi cung, Grap được đưa về tạm giam tại gia đình nhà chị Thanh (hiện chị hơn 80 tuổi đang còn sống, chồng mới mất) để chờ bàn giao. Sau đó Ban Chỉ huy đại đội giao nhiệm vụ cho tôi báo cáo để bàn giao tên giặc lái cho Tỉnh đội Quảng Bình, nhưng Tỉnh đội cho biết, phải chờ đại diện Bộ Quốc phòng vào mới lập biên bản bàn giao giữa Ban Chỉ huy đại đội với phía Tỉnh đội và đại diện cơ quan Bộ Quốc phòng. Sau đó tên giặc lái được đưa về nhà giam Hỏa Lò.

Chiến công đầu của  c4 bắn rơi máy bay RF101, là chiếc máy bay thứ 820 của giặc Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc và bắt sống giặc lái, cỗ vũ tinh thần chiến đấu của đơn vị ngày càng lên cao. Khí thế “nhằm thẳng quân thù mà bắn” càng được phát huy trong toàn đơn vị. Sau chiến công bắn rơi máy bay và bắt sống giặc lái Mỹ, lãnh đạo địa phương đến chúc mừng và tặng cho c4 một con bò để tổ chức liên hoan.

Cuộc gặp gỡ sau nửa thế kỷ

Chiến tranh đã lùi xa. Việt Nam và Mỹ khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, trở thành đối tác đáng tin cậy dựa trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau. Người dân Việt Nam và Hoa Kỳ có thể qua lại bằng con đường thương mại, du lịch. Anh Phạm Đức Du là đồng đội của tôi. Anh về c4 sau vụ bắt sống giặc lái Mỹ. Anh cùng quê Thái Bình với Đại đội trưởng Dư Văn Tùy lúc đó. Gần đây, anh Du sang thăm người thân định cư ở Mỹ. Được anh Tùy cung cấp thông tin về tên giặc lái Mỹ do anh khai thác thông tin khi hỏi cung trước đây và thông qua con cháu bên Mỹ, qua tìm hiểu mạng xã hội, anh Du đến thăm Tượng đài chiến tranh Việt Nam ở Washington - Mỹ. Được biết Tượng đài chiến tranh Việt Nam (hay Bức tường chiến tranh Việt Nam), khắc tên của hơn 58.000 chiến binh Mỹ đã thiệt mạng hoặc mất tích khi tham gia trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau khi tìm kiếm, anh Du tìm thấy tên của Wilmer Newk Grubb và địa chỉ trên Bức tường chiến tranh Việt Nam. Anh còn tìm được ngôi mộ có khắc tên của Grubb. Không lâu sau, anh Du đã liên lạc và gặp được bốn người con trai của ông ta, họ vô cùng mừng rỡ. Vì bốn anh em làm việc ba nước khác nhau nên họ hẹn ngày sẽ sang Việt Nam xin gặp những nhân chứng đã bắn rơi máy bay và bắt cha của họ.

Sau khi làm các thủ tục với chính quyền địa phương, các người con của giặc lái năm xưa mời chúng tôi tham gia cuộc gặp gỡ. Ngày 1-1-2008, tôi cùng mấy CCB ở Quảng Bình đã sắp xếp đến gặp các người con và thân nhân của Grubb. Chúng tôi dẫn họ đến địa điểm nơi chiếc máy bay bị bắn hạ, thăm gia đình chị Thanh, nơi giam giữ Grubb. Tháng 4-2015, bốn người con trai và một số thành viên trong gia đình của Grubb lại sang Việt Nam. Họ gặp chúng tôi, muốn chúng tôi kể lại tường tận về việc bắn hạ máy bay và cuộc bắt sống Grubb, rồi về thăm trận địa 12 ly 7 năm xưa. Đoàn chúng tôi gồm: Trần Đình Phổ, Nguyễn Văn Xuân, Đinh Xuân Ngô (tổ trưởng bắt giặc lái), Phạm Đức Du (người kết nối cuộc gặp gỡ) và tôi. Sau nửa thế kỷ, anh em đồng đội mới có điều kiện gặp nhau. Mấy người con phi công Mỹ cho biết: Wilmer Newk Grubb (Grap) vì lâm bệnh, đã mất trước khi tù binh là giặc lái được trao trả. Ngày trao trả tù binh, gia đình chỉ nhận được hài cốt Grubb, có kiểm tra ADN với người nhà để kiểm chứng.

Mấy người con của phi công Mỹ đã tặng quà, bày tỏ lòng biết ơn đến anh em chúng tôi đã tiếp đón và cảm ơn người dân Sơn Trạch nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung đã xóa bỏ hận thù, xây dựng tình hữu nghị mật thiết. Chiếc bi đông của tôi cho tên giặc lái uống nước ngày đó đã theo tôi suốt cuộc đời quân ngũ được tặng lại cho các người con của Grubb để họ làm kỷ niệm. Được sự đồng ý của chúng tôi, người nhà của Grubb xin được về thăm gia đình anh Ngô, anh Phổ và gia đình tôi. Người con tên giặc lái có tên Roland Grubb đã bày tỏ lòng cảm ơn và nhận xét: “Người Việt Nam sống rất tình cảm, hiếu khách và cao thượng, ít thấy người dân nước nào có tấm lòng như vậy”. Sau khi về nước, mấy người con phi công Mỹ đã kết bạn trên Facebook với chúng tôi để trao đổi thông tin cần thiết. Trong một trang Facebook của Van Grubb, con của phi công Mỹ có đoạn viết: “Tôi xin cảm ơn Phạm Đức Du và các thành viên của đơn vị c4 vì đã chuyển động các sự kiện bắt đầu hành trình của gia đình tôi để tìm thông tin mới về cha tôi... Bạn sẽ luôn có sự tôn trọng sâu sắc nhất của chúng tôi đối với những gì bạn đã làm cho chúng tôi và đó là món nợ không bao giờ có thể trả. Thật kinh ngạc khi một bức ảnh có thể thay đổi cuộc sống gia đình. Chúa phù hộ và cảm ơn bạn đã cho tôi chia sẻ...”.

*

Năm 1990 ông Lê Ninh nghỉ hưu với cấp bậc Trung tá, Trưởng ban Tổ chức Sư đoàn 384. Hiện nay ông là hội viên CCB, Hội Truyền thống Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình. Tiếp tục phát huy truyền thống người lính Cụ Hồ, ông Lê Ninh tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương rất tích cực. 21 năm làm Chủ tịch Hội CCB, Phó chủ tịch Ủy ban MTTQ xã. Năm 2022, ông được tặng Huy hiệu 55 tuổi Đảng.

  CCB Lê Ninh kể, Nguyễn Đại Duẫn ghi