Căn cứ không quân Mỹ tại Anh.

Từ đồng minh thân cận, từng được coi là bệ phóng cho sức mạnh toàn cầu của Mỹ, châu Âu rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan khi người đồng minh Washington xa lánh dần, nay phải tự lực cánh sinh với các mối đe dọa an ninh.

Dẫn một nghiên cứu mới từ Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS), tờ Politico châu Âu chỉ ra rằng, nếu Mỹ rút quân khỏi châu Âu, các thành viên NATO của châu lục này sẽ phải đối mặt với “những lựa chọn khó khăn” về cách lấp đầy khoảng trống to lớn về năng lực quân sự và đồng thời trở nên dễ bị tổn thương hơn trước mối đe dọa từ bên ngoài.

Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước châu Âu là thành viên của NATO đều dựa vào Mỹ trong lĩnh vực an ninh. Washington phải gánh vác những chi phí quân sự tốn kém ở châu Âu, bao gồm cung cấp hậu cần, vận chuyển chiến lược, truyền thông, tình báo, trinh sát, tác chiến điện tử trên không và lấp đầy kho dự trữ đạn dược.

Tổng thống Mỹ - Donald Trump ngày càng cho rằng, các đồng minh châu Âu đang lợi dụng sức mạnh quân sự của Mỹ mà không chịu chia sẻ gánh nặng chi phí quốc phòng. Không chỉ yêu cầu các thành viên NATO nâng ngân sách quốc phòng lên 2% GDP rồi 5% GDP, ông Trump còn ám chỉ muốn chuyển hướng khỏi sự hỗ trợ quân sự của Mỹ kéo dài hàng thập niên cho châu Âu.

Theo dự định của Lầu Năm góc (Bộ Quốc phòng), Mỹ sẽ rút bớt trong số gần 84.000 binh sĩ tại châu Âu, hiện đóng chủ yếu tại Đức, Ba Lan và một phần nhỏ tại Romania, Estonia, Litva. Nhiều cơ sở trong số 31 căn cứ thường trực của Mỹ ở châu Âu, bao gồm căn cứ hải quân, không quân, mặt đất, chỉ huy và kiểm soát, sẽ đóng cửa. Điều này khiến NATO - trụ cột an ninh của châu Âu rơi vào tình trạng bất ổn chưa từng có. Châu Âu sẽ phải gấp rút tìm cách lấp đầy khoảng trống an ninh khi quân đội Mỹ thu hẹp quy mô hoạt động trong khu vực.

Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS) ước tính, châu Âu sẽ cần chi 1.000 tỷ USD trong 25 năm tới để thay thế năng lực và vũ khí do Mỹ đang cung cấp cho lục địa này. Con số này bao gồm: Chi phí mua sắm từ 226-344 tỷ USD, tùy thuộc vào chất lượng thiết bị được mua; các chi phí bổ sung liên quan đến bảo trì quân sự, nhân sự và hỗ trợ. Trong trường hợp xảy ra chiến sự, việc thay thế quân nhân Mỹ sẽ tiêu tốn hơn 12 tỷ USD.

Mặt hàng đắt đỏ nhất trong danh sách mua sắm sẽ là 400 máy bay chiến đấu chiến thuật, tiếp theo là 20 tàu khu trục và các tên lửa đất đối không tầm xa. Đánh giá của IISS không bao gồm những gánh nặng khác mà chi phí của chúng khó định lượng hơn, như: Chỉ huy và kiểm soát, phối hợp hiệp đồng, không gian, tình báo và giám sát, chi phí cho vũ khí hạt nhân. Châu Âu cũng sẽ cần đảm nhiệm một số chức vụ hàng đầu, như chức vụ Chỉ huy đồng minh tối cao ở châu Âu hiện nằm trong tay của Mỹ. Khi Mỹ không còn tham gia, châu Âu cũng sẽ phải tăng cường các nỗ lực phối hợp ngoại giao.

Để làm được điều này, châu Âu cần đưa mức chi tiêu quốc phòng trở lại tiêu chuẩn thời Chiến tranh Lạnh. Theo cựu Tổng thư ký NATO - Anders Fogh Rasmussen, châu Âu phải hành động quyết liệt hơn. Ông Rasmussen đề xuất nâng mức chi tiêu quốc phòng của NATO từ 2% GDP hiện tại lên 3% ngay lập tức và tiếp tục tăng lên 4% vào năm 2028. Điều này đồng nghĩa với việc châu Âu phải bổ sung khoảng 350-400 tỷ USD/năm cho ngân sách quân sự.

Cuối tháng 5-2025, sau nhiều nỗ lực, Liên minh châu Âu (EU) đã nhất trí đề xuất lập quỹ trị giá 150 tỷ Euro (khoảng 168 tỷ USD) nhằm thúc đẩy quốc phòng của khu vực. Theo đó, quỹ sẽ chi thông qua hình thức vay chung và cấp các khoản vay cho các thành viên EU để tăng cường quốc phòng và thúc đẩy ngành công nghiệp vũ khí của châu Âu.

Tuy nhiên, việc lấp đầy khoảng trống mà Mỹ để lại không chỉ là vấn đề tiền bạc. Ngay cả với thiện chí chính trị không giới hạn và ngân sách dồi dào, ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu vẫn không có khả năng đáp ứng nhu cầu gia tăng trong ngắn hạn. Các nhà sản xuất vũ khí châu Âu sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, như: Tắc nghẽn chuỗi cung ứng, thiếu hụt công nhân lành nghề, các hạn chế về tài chính.

Chẳng hạn, chi tiêu không chỉ dừng lại ở việc mua sắm xe tăng, pháo binh hay máy bay chiến đấu, châu Âu cần đầu tư mạnh mẽ vào các lĩnh vực như phòng không, tiếp tế và hậu cần. Đây là những mắt xích quan trọng nhưng lại đang phụ thuộc gần như hoàn toàn vào Mỹ. Đặc biệt, trong một số lĩnh vực công nghệ cao như pháo phản lực hoặc máy bay chiến đấu tàng hình, việc mua sắm từ các nhà sản xuất châu Âu đơn giản không phải là một lựa chọn khả thi vì sự thua kém so với Mỹ.

Không ít thách thức đang khiến “giấc mơ tự cường” an ninh của châu Âu có thể trở thành ảo vọng.

Tiến Thành