Cái Tết ấy lưu giữ bên tôi như là mối tình đầu, tôi yêu và nhớ mãi. Mỗi lần gặp nhau, đồng đội tôi cũng chỉ nhắc tới kỷ niệm ấy là vui tươi nhất. Đó là cái Tết cổ truyền dân tộc năm 1974 trên nước bạn Lào vừa mới hòa bình còn nóng bỏng hơi bom đạn. Đó là cái Tết “có một không hai” của đời tôi.

Đầu năm 1974, nước bạn Lào ký hiệp định hòa bình, hòa hợp dân tộc thống nhất đất nước. Hòa hợp dân tộc để có hòa bình là giải pháp tối ưu mà các chiến sĩ quân tình nguyện chúng tôi hét lên vì sung sướng. Số hiệu d923 là của một tiểu đoàn thuộc Bộ Tư lệnh Đoàn chuyên gia 959, được thành lập tháng 9-1959 sau Binh đoàn Trường Sơn 559 bốn tháng. Tiểu đoàn 923 có 4 đại đội, trong đó có 3 đại đội trực thuộc, còn Đại đội 23 đóng ở điểm cao Pa Thí là độc lập. Đa số là người Tày, người Thái (Tây Bắc) và người Mường (Thanh Hóa) nói sõi tiếng Lào; có người sang đã 10 năm, có bác sĩ tốt nghiệp từ thời Đông Dương sang lập bệnh viện đầu tiên, có ông chính trị viện bệnh viện là người Mường, quê Thanh Hóa là lính đánh Pháp, còn tôi lính 1972, vô cùng khâm phục họ.

Bỗng một ngày hệ thống radio của bạn vang lên bài hát “đẹp thay quê hương” là “Thông báo đặc biệt” từ nay hai Chính phủ Lào sẽ tiến hành thực hiện “Hiệp định hòa bình, hợp dân tộc thống nhất đất nước”. Quân tình nguyện Việt Nam sung sướng muôn phần thì dân bản lại lo lắng hãi hùng, họ leo đèo lội suối đến gặp Tha hán Việt Nam (bộ đội Việt Nam) để hỏi một câu: “Các con sẽ về nước hay ở lại? Các con về bọn phỉ nó đến giết hết dân bản mất!”. Chúng tôi hứa với bà con tuyệt đối an tâm, người già buộc chỉ cổ tay cầu phúc cho chiến sĩ ta để bảo vệ lấy dân Lào, đừng bỏ về để dân Lào lại khổ. Tôi là y tá Đại đội 2.

Đại đội 2 của tôi có 3 tiểu đội chiến đấu và 3 tiểu đội phục vụ là tiểu đội vận tải có 2 con ngựa thồ, có tiểu đội nòng cốt gồm súng cối, B40 và trung liên; tiểu đội cơ quan có Chỉ huy đại đội, liên lạc, anh nuôi, thủ kho kiêm kế toán và y tá. Tiểu đội cơ quan của tôi là đông nhất 12 người, mỗi tôi là người Kinh còn từ thủ trưởng tới anh em đều là người dân tộc thiểu số. Nghe họ nói chuyện với nhau cười nói hoan hỷ vui lắm, tôi chỉ lõm bõm hiểu, họ bảo mau mau về phép còn bắn pháo hoa cho vợ nó sướng!

Tết năm 1974, chúng tôi được phép cử người mang muối, gạo, mắm tôm vào dân đổi thực phẩm. 2 cân gạo tẻ lấy 1 cân gạo nếp, 1 cân muối lấy 3 cân thịt chó, 2 thỏi mắm tôm đổi 1 con gà; ngựa thồ hàng kìn kịt về sân đại đội. Mùa đông ở Lào hầu như không có thứ hoa gì. Quân ta lấy tre, lá đan thành cái cổng chào hoành tráng, viết chữ “Chúc mừng năm mới” treo lên, không khí thật ấm áp rộn ràng, còn làm giàn sấy cá suối, thịt trâu từ mấy hôm trước Tết; cử người đến các khe suối lấy lá dong, hái măng trúc, mộc nhĩ... Một cái Tết quá đủ đầy về vật chất, sung sướng về tinh thần.

Thú vị nhất là tin các Đoàn văn công từ Điện Biên, Lai Châu, Thanh Hóa sang và các Đoàn của nước bạn về đơn vị phục vụ. Đường vào đơn vị tôi phải qua một con suối có tên là Nậm Khan, tuy nhỏ thôi nhưng mùa mưa hung dữ vô cùng, mùa khô nước chỉ liu riu, trong vắt. Lòng suối lổn nhổn đá, những viên đá bị nước mài nom xinh xắn bị rêu bám tạo nên sự hoang sơ và kỳ bí. Các Đoàn văn công về, quân ta phải ra đường lớn cách hàng cây số để đón, khuân giúp hành trang; rồi còn cử nhau cõng các cô văn công qua suối. Những chàng trai tên Nóm, Phặn, Xá, Sề, Bảo… là chiến binh người dân tộc chưa hề có tình thư, giờ được cõng nữ văn công qua suối thì đứng tim. Cậu Nóm to như gấu lại vờ choạng choạng để giữ cảm xúc. Đấy là giây phút thần tiên nhất của đời lính, cả triệu người lính mấy ai có cơ hội được giúp đỡ bà con như thế và các cô văn công đã đi xung kích khắp các chiến dịch cũng thừa biết đời lính là quãng đời sung sức nhất nên họ yêu đời thiết tha.

Cô Lan diễn viên chèo còn bảo Ma Văn Nóm: “Vai anh chắc như cánh phản vững vàng quá anh ơi. Em cảm ơn anh và em thưởng anh một cái ôm”. Cái ôm không đủ lâu nhưng Ma Văn Nóm mắt xếch cứ đờ ra chả biết nói câu gì vì hạnh phúc quá đỗi bất ngờ. Đất nước hòa bình, ta sẽ về với đất nước của ta là ta thỏa ước mong. Còn bây giờ hãy nghe cô gái văn công Đoàn Sầm Nưa hát: “Ngày chiến thắng mời anh về bản em/ Ta múa hát thâu đêm/ Ta say mềm cùng sao trời...”. Không chỉ có tinh thần văn hóa văn nghệ, chúng tôi còn có quà của Tỉnh đội Thanh Hóa gửi tặng mỗi người bao thuốc lá Lạch Trường, Bộ Quốc phòng gửi tặng mỗi người bao thuốc lá Điện Biên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi tặng mỗi bệnh nhân một lọ thuốc Thập toàn đại bổ. Tôi thích thú vô cùng với giọng hát của ca sĩ Quốc Hương bài “Cô gái Sầm Nưa”, ca sĩ Tường Vy bài “Hoa Chăm pa” bằng cả tiếng Việt và tiếng Lào. Cả núi rừng âm vang và sôi động. Các bạn Lào xem đã quá, hét toáng lên: “Thầu Quốc Hương khắp ngam ty sút” (ông già Quốc Hương hát hay vô cùng!”.

Rồi sương sa, lửa đốt, tất cả diễn viên và chiến sĩ nắm tay nhau tung hứng quanh đống lửa, hát vang rừng bài “Dài như nước sông Cửu long/ Cao như dãy núi trường Sơn/ Tình đoàn kết hai dân tộc”... rồi tất cả ùa vào nhau hát lăm tơi, múa lăm vông quanh ngọn lửa bập bùng và trống nhạc hết sức sôi động dội vào đá núi vọng lại như muôn sóng âm thanh huyền ảo; các điệu lăm, điệu khắp của dân ca Lào dành cho tập thể hay tuyệt vời mà đất nước chúng ta không có.

Sáng ngày mồng hai Tết, dân kéo về ăn Tết đông quá, trong đó có người chị mang đứa con 3 tuổi xanh xao bảo con bộ đội Việt Nam. Tâm (Đen) người Thái sang Lào đã 6 năm tiếp xúc và trò chuyện. Tâm bảo cô này tên Bun My ở bản Có cách đây 40km. Cô yêu anh bộ đội tên Phức làm y tá. Mấy năm nay không thấy anh Phức về. Tâm dạn dày kinh nghiệm, anh bảo: Các năm từ 1967 đến 1969, mặt trận Sầm Nưa - Xiêng Khoảng vô cùng ác liệt, Bộ Quốc phòng phải điều Đặc công, trinh sát, công binh sang mới giải quyết được, họ đến, họ đi rất bí mật, chỉ lãnh đạo Bộ Tư lệnh biết. Chuyện quân dân tình nghĩa nảy yêu đương rất bình thường… Chúng tôi nấu cơm mời dân ăn, người Lào không ăn thịt chó, nhưng bất cứ món ăn nào của chúng ta họ cũng đều kêu phi sệt - nghĩa là ngon tuyệt. Ẩm thực Lào đơn điệu, họ chỉ có hai cách là nướng và hấp, rau bí, rau dền không ăn mà ăn rêu đá. Cán bộ các cơ quan của Lào đều đào tạo văn hóa ở Việt Nam, ở Nghệ An và Thanh Hóa có trường dạy văn hóa cho cán bộ Lào nên liên hoan họ đều làm cỗ như Việt Nam.

Tết năm ấy, ba đêm liền chúng tôi giao lưu văn nghệ với các đơn vị TNXP, các Đoàn văn công tỉnh Hùa Phăn và nhân dân Sầm Nưa thâu đêm tới sáng; ngày thì bóng chuyền, hứng lên còn té nước như Tết của các bạn Lào. Mỗi chúng tôi được tặng, chia tới 10 chiếc bánh chưng, có kẹo Hải Hà, rượu cam, chanh, thuốc lá…, một cái Tết, Quân tình nguyện bộ đội Việt Nam không chỉ ăn Tết cổ truyền mà chính là mừng nước bạn Lào hòa bình, thống nhất đầy đủ, ấm áp tuyệt vời đến thế.

Nhớ mãi cái Tết hòa bình đầu tiên thiêng liêng đầm ấm ở xứ sở hoa chăm pa xinh đẹp.

Vũ Thế Thược