Hội thảo cung cấp thông tin về phòng, chống tác hại của thuốc lá.

Các sản phẩm thuốc lá truyền thống, thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng đều là sản phẩm có hại cho sức khỏe - đây là khẳng định của các chuyên gia y tế tại Hội thảo cung cấp thông tin cho báo chí về phòng, chống tác hại của thuốc lá vừa được Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức.

Tác hại của thuốc lá

Cụ thể về tác hại của thuốc lá được bà Nguyễn Thị Thu Hương - đại diện Quỹ phòng, chống tác hại thuốc lá cho biết: “Sử dụng thuốc lá gây 8 triệu ca tử vong mỗi năm trên thế giới (trong đó có khoảng 1 triệu ca tử vong do hút thuốc thụ động). Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, tổn thất kinh tế toàn cầu do thuốc lá gây ra mỗi năm là 1.400 tỷ USD. Thuốc lá cũng là nguyên nhân làm cho rừng bị tàn phá và ô nhiễm môi trường. Hằng năm, khoảng 5% diện tích rừng bị phá để trồng cây thuốc lá, cũng như lấy gỗ để sấy thuốc lá. Ước tính, mỗi năm cần 18 tỷ cây xanh để làm củi sấy thuốc lá. Việc sử dụng thuốc lá, thải ra môi trường mỗi năm khoảng từ 3.000-6.000 tấn formaldehyde, từ 12.000 - 47.000 tấn nicotine và từ 300 - 600 triệu kg chất thải độc hại của các mẩu thuốc lá”.

ThS. BS. Nguyễn Thị An - Giám đốc Tổ chức HeathBridge Việt Nam cũng khẳng định: “Khói thuốc lá chứa 7.000 hợp chất độc hại, 69 hợp chất gây ung thư. Nicotine trong thuốc lá gây nghiện, ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ. Khói thuốc gây nên những tác động nghiêm trọng tới trẻ trong suốt giai đoạn từ khi thụ thai, thơ ấu và thanh thiếu niên. Việc sử dụng thuốc lá sớm ở trẻ em và thanh thiếu niên gây nghiện sớm, khó cai hơn, ảnh hưởng sớm đến sức khỏe, sự phát triển não bộ, khả năng học tập, khả năng lao động, chất lượng giống nòi”.

Theo các chuyên gia chia sẻ tại Hội thảo, những năm qua, với nỗ lực cao của Bộ Y tế và các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố, công tác phòng, chống tác hại thuốc lá đã đạt được nhiều kết quả. So với năm 2015, tỷ lệ sử dụng thuốc lá trong nam giới Việt Nam giảm từ 45,3% xuống 42,3%. Tỷ lệ hút thuốc lá ở học sinh nhóm tuổi từ 13-15 tuổi từ 3,5% năm 2014 xuống 2,7% năm 2022, trong đó nam giới giảm từ 6,3% xuống 4%.  Mặc dù chưa như mong đợi, nhưng đây cũng là kết quả đáng ghi nhận.

Tỷ lệ tiếp xúc thụ động với khói thuốc lá (hút thuốc lá thụ động) tại các địa điểm công cộng như: Nơi làm việc giảm từ 42,6% xuống 30,9%; tại nhà: giảm từ 59,9% xuống 56,0%; tại nhà hàng giảm từ 80,7% xuống 78,1%; tại quán bar, cà phê, trà giảm từ 89,1% xuống 86,2%. Tuy nhiên đây là tỷ lệ cao.

Nhận thức của người dân ngày càng cao về tác hại của thuốc lá và tiếp xúc thụ động với khói thuốc: Năm 2020, tỷ lệ người trưởng thành tin rằng hút thuốc lá có thể gây nên những bệnh nghiêm trọng cao (95,5%). Tỷ lệ người trả lời tin rằng hút thuốc lá gây ung thư phổi (96,2%), đột quỵ (81,1%), đau tim (77,8%) và 72,2% tin rằng hút thuốc là gây ra cả 3 bệnh trên.

Với các kết quả như trên, theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam đã phòng tránh được 280.000 ca tử vong sớm vì các bệnh liên quan đến sử dụng thuốc lá. Ước tính chi phí tiết kiệm được do giảm tỷ lệ bệnh tật do sử dụng thuốc lá gây ra trong giai đoạn 2015-2020 là 1.277 tỷ đồng/năm.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một trong 15 nước có số nam giới trưởng thành  hút thuốc lá nhiều nhất trên thế giới và mức giảm ở trên vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra trong Chiến lược phòng, chống tác hại thuốc lá đến năm 2020, đó là giảm sử dụng thuốc lá ở nam giới xuống còn 39%.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu của việc tỷ lệ hút thuốc lá còn cao và giảm chậm là do thuế thuốc lá của Việt Nam còn rất thấp. Giá thuốc lá rẻ làm tăng khả năng tiếp cận và mua thuốc lá của thanh thiếu niên và người nghèo. Bên cạnh đó, trên thị trường xuất hiện các sản phẩm mới: thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng.

Gia tăng tỷ lệ hút thuốc lá điện tử

Theo nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc lá năm 2020 của Bộ Y tế, tỷ lệ hút thuốc lá điện tử (thuốc lá mới) năm 2020 tăng 18 lần so với năm 2015 (từ 0,2% lên 3,6%). Tỷ lệ hút thuốc lá điện tử trong thanh thiếu niên Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng. Đặc biệt, xu hướng sử dụng thuốc lá điện tử tập trung cao ở nhóm tuổi 15-24 tuổi với tỷ lệ là 7,3% so với các nhóm tuổi 25-44 tuổi (3,2%), 45-64 tuổi (1,4%).

Bà Nguyễn Thị Thu Hương khẳng định: Thuốc lá điện tử có chứa nicotin là một chất gây nghiện cao. Để che giấu độ gắt của nicotin làm cho sản phẩm dễ chịu hơn, dễ hít, các nhà sản xuất còn sử dụng rất nhiều loại hương liệu. Thuốc lá nung nóng tạo ra chất khí độc hại, có nhiều chất độc giống như trong khói thuốc lá điếu thông thường. Dù được nung ở nhiệt độ thấp hơn, nhưng vẫn tạo ra những hóa chất độc hại như glycidol, formaldehyde và acetaldehyde (chất gây ung thư), carbon monoxide, hydrocarbon thơm đa vòng và các kim loại (nhôm, titan, stronti, molypden, thiếc và antimon).

Các sản phẩm thuốc lá mới có nguy cơ cao tiềm ẩn và phát sinh các tệ nạn xã hội, nhất là sử dụng ma túy và các chất gây nghiện. Thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng làm tăng tỷ lệ sử dụng thuốc lá thông thường, đặc biệt là trẻ em, thanh thiếu niên, phụ nữ và trẻ em gái.

Thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng không phải là sản phẩm ít hại hơn thuốc lá điếu thông thường. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), không có sản phẩm thuốc lá nào là an toàn cho sức khỏe. WHO kêu gọi các quốc gia cần ngăn ngừa việc đưa ra các kết luận thiếu căn cứ về tính an toàn của các sản phẩm này, đồng thời thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng, chống tác hại thuốc lá hiệu quả được quy định trong Công ước khung thay vì sử dụng các sản phẩm mới được quảng cáo là ít có hại.

Thuốc lá điện tử không phải là sản phẩm giúp cai nghiện thuốc lá điếu thông thường. Theo WHO, trên thế giới chưa có bằng chứng về việc thuốc lá điện tử giúp cai nghiện thuốc lá thông thường. WHO cũng không xác nhận thuốc lá điện tử là một biện pháp hỗ trợ cai nghiện. Bằng chứng cho thấy người sử dụng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng có nguy cơ sử dụng thuốc lá thông thường, nhiều người sử dụng đồng thời cả thuốc lá điện tử và thuốc lá thông thường.

Vì vậy, các quốc gia không nên thực hiện thí điểm thuốc lá nung nóng dẫn đến khó có thể kiểm soát được các sản phẩm tương tự.

Theo báo cáo của WHO: Hiện nay đã có ít nhất 34 quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng chính sách cấm hoàn toàn các sản phẩm thuốc lá điện tử. 7 quốc gia cho phép nhưng áp dụng quy định quản lý chặt chẽ như cấp phép dược phẩm, quy định thuốc lá điện tử dưới dạng sản phẩm cai nghiện nicotine và cần thẩm định cấp giấy phép. Tuy nhiên chưa có sản phẩm thuốc lá nào được cấp phép lưu hành ở 7 quốc gia này vì hiện nay chưa có bất kỳ sản phẩm nào đạt tiêu chuẩn cấp phép lưu hành trên thị trường. Do đó, về thực tế thì đây cũng tương đương như là chính sách cấm của 34 quốc gia trên. Đặc biệt là Úc, nicotine vẫn nằm trong danh mục “chất độc dược” và chỉ được sử dụng khi có giấy phép. Trong khu vực ASEAN đã có 5 quốc gia cấm hoàn toàn thuốc lá điện tử là Thái Lan, Singapore, Lào, Brunei, Campuchia.

Ở Việt Nam, để giảm thiểu tình trạng sử dụng thuốc lá, bà Nguyễn Thị Thu Hương đề xuất, ủng hộ tăng thuế thuốc lá, cấm quảng cáo, khuyến mại và tài trợ, truyền thông rộng rãi đến người dân qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong đó, Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá; Luật Quảng cáo; Luật Thương mại đã quy định rõ cấm quảng cáo, khuyến mại, tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng với mọi hình thức.

Thành An