
Binh nhì Nguyễn Đức Vân trong bộ quân phục giải phóng trước ngày lên đường vào chiến trườngB (3-1972).
Đầu Xuân, có dịp ngồi cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm đáng nhớ trong đời quân ngũ. Với CCB, thương binh Nguyễn Đức Vân - nguyên là Chuyên viên cao cấp Văn phòng Chính phủ cũng vậy. Chuyện trò cùng tôi dịp đầu Xuân Ất Tỵ, ông suy tư với bao kỷ niệm vui buồn của những năm tháng là lính Đặc công. Xin được ghi lại một câu chuyện trong đó:
Mùa thu năm 1971, tôi xung phong nhập ngũ khi mới 17 tuổi. Tôi rất hãnh diện vì là một trong mười anh em quê Bắc Giang được chọn vào binh chủng Đặc công. Bởi đã được nghe kể về lính đặc công “xuất quỷ, nhập thần” trong chiến đấu, lại rất giỏi võ...
Tôi được biên chế vào Đại đội 15, Tiểu đoàn 29 - một đơn vị đặc công bộ, huấn luyện đánh cứ điểm. Đại đội đóng quân tại làng Phú Mỹ C, thuộc huyện Ba Vì (nay là ngoại thành Hà Nội). Tôi cùng đồng đội Nguyễn Hữu Dụng và Đào Hồng Hạnh, trở nên thân thiết bởi cả ba khá tương đồng cảnh ngộ, hợp tính tình và đều học cấp 3. Dụng dáng vóc nhỏ mà chắc, chân đi vòng kiềng (rất tiếc là anh đã hy sinh tại chiến trường Quảng Ngãi năm 1973). Còn Hạnh thì dáng thư sinh dễ mến, hết chiến tranh về quê tham gia công tác địa phương và làm đến chức Phó chủ tịch xã.
Sau thời gian ngắn ổn định mọi mặt, đơn vị khẩn tương lao vào huấn luyện để kịp bổ sung chochiến trường. Tuy vậy, vẫn phải đảm bảo yêu cầu tinh thông kỹ, chiến thuật binh chủng.
Để đảm bảo yêu cầutuyệt đối “bí mật, bất ngờ”, chúng tôi được huấn luyện về kỹ thuật như: vượt rào cản dây thép gai; khắc phục mìn các loại; vượt hầm chông, cách tránh các loại đèn pha trong căn cứ địch… tất cả đều thận trọng, tỉ mỉ và thuần thục đến từng động tác. Ví như động tác dò và gỡ mìn, thì ngoài việc phải hiểu kỹ từng loại mìn lại còn phải luyện cử động từng ngón tay thật uyển chuyển để dò tìm mìn, lần sờ dây... Thuần thục đến mức mình phải nhận biết được bằng “cảm giác” trong đêm tối. Rồi, những động tác tiềm nhập khác như đi trên lá khô, trên sỏi đá, kỹ thuật vượt hầm chông... cũng phải huấn luyện kỳ công như vậy.
Huấn luyện võ thuật là môn bắt buộc, được thực hiện rất cơ bản. Bắt đầu bằng bài võ liên quyền, võ tổng hợp rồi đánh đối kháng... Ai cũng say mê nên đau mấy cũng nghiến răng chịu. Có vài miếng võ, luyện với nhau suốt ngày, tối đến cánh lính trẻ còn ngứa nghề ra ngoài đơn vị đi gây sự đánh nhau để “thử nghiệm”. Tất nhiên là lần nào chúng tôi cũng thắng.
Khi huấn luyện chiến thuật đột nhập, chúng tôi phải cới trần, bôi bùn đất, vẽ lên cơ thể nhau bằng nhọ nồi để ngụy trang cho phù hợp với phối cảnh xung quanh. Ngại nhất là các buổi thực hành đột nhập vào ban đêm. Trong cái lạnh cắt da, cắt thịt của vùng đồi núi Ba Vì mà chúng tôi chỉ mặc mỗi quần sịp, ngụy trang rồi luyện tập suốt hai, ba tiếng đồng hồ ngoài đồi mà chẳng có cách gì để chống rét. Nhưng rèn mãi rồi cũng quen dần thấy mình chịu được.
Càng gần Tết Nhâm Tý năm ấy cũng càng gần hơn ngày lên đường đi B nên công tác huấn luyện càng khẩn trương. Việc chuẩn bị đón Xuân được bộ phận hậu cần lo cả. Còn chúng tôi chỉ lo ăn, lo tập. Tối 23 Tết, ba chúng tôi ngồi chuyện trò với nhau ở thao trường giờ giải lao, chợt cả ba đều nén tiếng thở dài rồi thốt lên “nhớ nhà quá. Thế là trong đầu nảy ra ý định trốn về quê ăn Tết và bàn cách trốn...
Như đã thống nhất, khoảng 3 giờ sáng ngày 28 Tết, tôi bấm chân đồng đội, bằng kỹ thuật được huấn luyện, chúng tôi nhẹ nhàng bí mật rời đơn vị băng qua đồi núi, đi bộ một mạch về Thị xã Sơn Tây rồivẫy xe đi nhờ về Hà Nội. Tìm về ga Hàng Cỏ, lấy vé tàu về quê.
Về đến nhà, còn phải nói, nhất là mẹ vô cùng mừng rỡ đón tôi. Bố tôi hỏi, con được về đến bao giờ. Tôi thoáng giật mình: “Mồng, mồng ba ạ”. Ông có vẻ trầm ngâm!
Được tin tôi về, bà con hàng xóm sang chơi rất đông, ai cũng hồ hởi hỏi thăm người lính trẻ chững chạc trong bộ quân phục ga-ba-đin màu cỏ úa còn mới nguyên. Các ông, các bà khen tôi rắn rỏi, tiến bộ nhiều lắm, đúng dáng anh bộ đội Đặc công. Tôi giật mình và thoáng ngượng vì mình đã nói dối mọi người. Chỉ khi cánh thanh thiếu niên xúm xít hỏi đủ thứ về chuyện ăn ở, luyện tập của lính đặc công thì thôi mới hăng lên kể rành rẽ từng chuyện. Tụi nó tỏ vẻ thán phục và ngưỡng mộ lắm khiến tôi cũng bớt áy náy trong lòng...
Ba ngày Tết trôi qua thật nhanh!
Sáng mồng Ba, bố giục mẹ làm cơm ăn sớm để tôi còn lên đơn vị. Ăn xong tôi khoác chiếc ba lô chứa biết bao quà bánh rồi chào mọi người để lên đường. Gặp nhau theo đúng hẹn ở ga Hàng Cỏ, chúng tôi mới bắt đầu lo và tính cách làm sao cho mau mau về đơn vị. Nhưng cũng phải đến 9 giờ tối thì mới đến nơi. Người đầu tiên tôi gặp là Chuẩn úy Trung đội trưởng Nguyễn Sĩ Dậu, quê Thanh Hóa. Thấy anh quắc mắt giận dữ, cả ba chúng tôi sợ dúm người. Trung đội tổ chức sinh hoạt kiểm điểm ngay 10 giờ đêm đó, từng người chúng tôi đứng lên tự kiểm điểm trước toàn Trung đội.
Sáng hôm sau, Đại đội tổ chức sinh hoạt, Trung úy Đại đội trưởng Nguyễn Đức Phê chủ trì. Ông vốn là bộ đội chống Pháp, da đen, mắt trắng nhìn rất dữ tợn nhưng bản tính lại tình cảm. Ông nghiêm giọng phân tích, phê phán sai trái của chúng tôi. Nhận rõ khuyết điểm, ba chúng tôi rất ân hận nhưng cũng cảm kích trước thái độ và tấm lòng của Đại đội trưởng. Hình thức kỷ luật là cả ba phải đào “tăng xê” trong 1 tuần, mỗi ngày 3m vào giờ nghỉ, ngày nghỉ. 3m hào ở đồi đá ong quả là “gian nan” nhưng chúng tôi thực hiện hình phạt rất tích cực để “xóa tội”.
Sau Tết năm ấy, đơn vị chúng tôi kết thúc khóa huấn luyện với kết quả tốt. Nhóm ba chiến sĩ chúng tôi là những người đi đầu vào đến chiến trường đúng yêu cầu về thời gian, tham gia đánh địch ngay vào những ngày mùa hè đỏ lửa năm 1972.
Cái Tết đầu tiên trong quân ngũ cùng lần vi phạm kỷ luật đầu tiên và duy nhất ấy đã trở thành một kỷ niệm khó quên trong đời lính của tôi.
Vũ Quang Huy