Theo chương trình nghị sự, ngày 24/5, Quốc hội nghe báo cáo và thảo luận về dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi); dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương và dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức.
Cụ thể, sáng 24/5, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi). Sau đó, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật này.
Chiều 24/5, Quốc hội sẽ nghe Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Nguyễn Khắc Định trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Tiếp đó, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Nguyễn Khắc Định trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức.
Sau khi nghe xong các báo cáo, Quốc hội tiến hành thảo luận tổ về 2 dự án Luật nêu trên.
Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 và Phiên họp thứ 31 về dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan thẩm tra, cơ quan soạn thảo và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật. Dự thảo Luật trình Quốc hội xem xét, thông qua gồm 17 chương, 151 điều, quy định về việc quản lý các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước. Những nội dung của dự thảo Luật đã được chỉnh lý, tiếp thu gồm: tính cụ thể của dự thảo luật; phạm vi điều chỉnh của Luật; giải thích từ ngữ; nguyên tắc quản lý thuế; những hành vi bị nghiêm cám trong quản lý thuế; đồng tiên khai thuế, nộp thuế; giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế; quản lý rủi ro trong quản lý thuế; xây dựng lực lượng quản lý thuế; hợp tác quốc tế; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý thuế; đăng ký thuế; khai thuế, tính thuế; ấn định thuế; nộp thuế; khoanh nợ, xóa tiền nợ thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; áp dụng hóa đơn, chứng từ điện tử; cung cấp dịch vụ đại lý thuế; kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế; xử phạt vi phạm hành chính; điều khoản chuyển tiếp.
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương trình Quốc hội cho ý kiến lần này với phạm vi sửa đổi, bổ sung tập trung vào vấn đề tinh gọn bộ máy, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế hành chính nhà nước.
Dự án luật dự kiến sửa đổi, bổ sung 5 điều của Luật Tổ chức Chính phủ và 28 điều của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Trong đó, nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật Tổ chức Chính phủ tập trung vào nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ. Những nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương tập trung vào việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền giữa các cơ quan của chính quyền địa phương các cấp; cơ cấu tổ chức của Hội đồng Nhân dân; phương thức hoạt động của chính quyền địa phương; cụ thể hóa chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức tập trung sửa đổi, bổ sung 3 điều, đó là: i) Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi 17 điều, khoản và bãi bỏ 3 khoản, điểm về đối tượng công chức, chính sách đối với người có tài năng, ngạch công chức, tuyển dụng công chức, phân loại, đánh giá và xử lý cán bộ công chức); ii) Điều 2 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Viên chức (sửa đổi 7 điều, khoản về tiêu chí phân loại sự đơn vị sự nghiệp công lập, chế độ hợp đồng đối với viên chức, đánh giá viên chức, chế độ thôi việc và xử lý kỷ luật viên chức); iii) Điều 3 về hiệu lực thi hành.
Liên quan đến Luật cán bộ, công chức: Nội dung quy định “đối tượng là công chức” được sửa đổi theo hướng: không tiếp tục quy định lãnh đạo, quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập là công chức; đối với lãnh đạo, quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ quản lý nhà nước được thực hiện chế độ công chức; sửa đổi, bổ sung quy định về tuyển dụng công chức theo hình thức thi tuyển, xét tuyển và tăng cường thực hiện phân cấp thẩm quyền trong tuyển dụng; sửa đổi, bổ sung các quy định về thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật đối với công chức; quy định rõ hơn những nguyên tắc về hình thức, thời hiệu áp dụng, cơ chế, trình tự, thủ tục xem xét kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu làm cơ sở để Chính phủ tiếp tục quy định chi tiết.
Liên quan đến Luật viên chức, trong đó quy định về thực hiện chế độ hợp đồng xác định thời hạn đối với viên chức tuyển dụng mới được trình Quốc hội theo 2 phương án: phương án 1 dự thảo luật quy định tất cả các trường hợp viên chức được tuyển dụng mới sau khi dự thảo Luật có hiệu lực sẽ thực hiện ký kết hợp đồng xác định thời hạn, không ký hợp đồng không xác định thời hạn và phương án 2 dự thảo luật quy định viên chức được tuyển dụng mới sau khi ký kết hợp đồng xác định thời hạn (tối đa 2 lần) sẽ ký hợp đồng không xác định thời hạn, trừ trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện KT – XH đặc biệt khó khăn thì khi tuyển dụng mới viên chức được ký ngay hợp đồng không xác định thời hạn. Cả hai phương án đều cần cân nhắc, tính toán kỹ về hiệu quả và tác động xã hội để vừa bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả nhưng cũng hạn chế việc tạo ra tâm lý e ngại, bất ổn trong đội ngũ viên chức hiện nay.
Ngoài ra, dự thảo luật sửa đổi quy định về việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu theo hướng cán bộ, công chức, viên chức sau khi nghỉ việc, nghỉ hưu vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình trong thời gian công tác; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Nguyễn Hoàng