Trong 3-4 năm gần đây, nước ta không đủ nguồn để trả nợ mà phải vay nước ngoài. Tình trạng ngân sách - tài chính quốc gia đang hết sức khó khăn. Thậm chí, khi xem xét việc nâng lương cho người lao động cũng phải nâng lên, đặt xuống nhiều lần và cuối cùng, cũng chỉ nâng lương cho một nhóm đối tượng có thu nhập thấp nhất, gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Trong khi đó, ở đâu đấy, chúng ta vẫn quá lãng phí tiền bạc của dân. Chủ trương “thực hành tiết kiệm, chống lãng phí” được nói nhiều. Chính phủ đã có nhiều giải pháp quyết liệt. Tuy nhiên, chỉ cần nhìn vào việc mua sắm, trang bị xe công cho các cơ quan công quyền, người có chức vụ thì có thể thấy rõ, đây là một mảng tối đang hết sức lãng phí.
Theo ý kiến các đại biểu Quốc hội, nhiều cán bộ cứ lên chức là lại thay xe mới. Có khi xe 7 chỗ chỉ dùng để đưa đón một người. Số tiền dành cho xe công đã lên đến nhiều ngàn tỷ đồng. Mấy kỳ họp trước, nhiều đại biểu còn đưa ra giải pháp khá hay là dùng chế độ khoán xe công, như thế sẽ tiết kiệm được hàng ngàn tỷ đồng ngân sách nhà nước. Ở các nước tiên tiến, các Bộ trưởng, thậm chí đến cả Thủ tướng cũng tự lái xe riêng đi làm. Có người còn đi cả xe buýt.
Tham nhũng là một tệ nạn, ở nước ta, nó đã thành quốc nạn, làm xói mòn niềm tin của dân đối với Đảng và các cấp chính quyền. Đó là một căn bệnh rất nguy hiểm mà chúng ta cần phải kiên quyết loại bỏ. Ngày nào trên các phương tiện truyền thông, chúng ta cũng bàn cách chống tham nhũng. Nhưng hiệu quả vẫn rất hạn chế. Có những tệ nạn còn nguy hiểm hơn cả tham nhũng. Đó là nạn lãng phí, nạn phô trương hình thức, làm tiêu hủy không biết bao nhiêu tiền bạc của dân. Nó nguy hiểm, bởi không ai phải chịu trách nhiệm. Những đồng tiền hoang phí ấy, nhìn bề ngoài, tưởng như không rơi vào túi ai. Và như thế, những kẻ tội đồ vẫn là người trong sạch. Thậm chí có người còn coi họ như những người có công. Sẽ có rất nhiều lý do chính đáng để họ rũ bỏ tội lỗi, mà không ai có thể kết tội được.
Không phải chỉ trong lĩnh vực xe công, còn nhớ cách đây không lâu, trong cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khi thảo luận việc thực hiện pháp luật về tiết kiệm, chống lãng phí, ông Ksor Phước - Chủ tịch Hội đồng Dân tộc cho biết, ông đã đi đủ 63 tỉnh, thành: “Có tỉnh xây dựng trụ sở nghiêm túc, đúng công năng, cán bộ ngồi gần kín chỗ; nhưng nhiều tỉnh trụ sở to như cung điện, rộng mênh mông như công viên, trông như nơi du lịch thắng cảnh, đẹp và lộng lẫy nhưng rất phản cảm vì quá xa hoa, khi mà tỉnh còn nghèo, đất nước còn nghèo và người dân lại quá đói nghèo”.
Cứ như nhận định của nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, cùng với việc đi lại tốn kém, mua xe vượt chỉ tiêu, những cuộc tham quan học hỏi kinh nghiệm các nước, thực chất là những chuyến du lịch trá hình, tiêu không biết bao nhiêu tiền bạc của dân. Ông Ksor Phước còn thẳng thắn kiến nghị: “Cần phải có quy chuẩn chung về trụ sở các cơ quan nhà nước, công khai để nhân dân giám sát”.
Đó là tiếng chuông báo động rất kịp thời. Và đó cũng là câu nói rất ấn tượng trong mấy năm trước đây, nhưng đến nay, nó vẫn còn tính thời sự.
Qua các kênh truyền thông, nhiều người dân cũng đã lên tiếng ủng hộ quan điểm của Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước: “Những điều mà Chủ tịch Hội đồng Dân tộc nêu ra rất đúng. Rất đáng phải suy nghĩ”. Có người dân muốn cụ thể hơn: “Điều ông Ksor Phước nói quá hay và quá chuẩn. Nhưng rất tiếc, ông lại không nhắc tên tỉnh nào. Phát biểu chung chung thế này, dù rất hay nhưng còn lâu mới loại bỏ được tham nhũng, lãng phí. Cần chỉ đích danh những địa phương nào và xử lý như thế nào. Không khéo cứ nói ra rồi lại đắp chiếu để đấy. Nói phải đi đôi với làm thì dân mới tin”. Tất nhiên, không thể đòi hỏi một vị quan chức Quốc hội phải đi vào những vụ việc quá cụ thể. Đó là công việc của các cơ quan chức năng.
Cũng bàn luận xung quanh ý kiến khá ấn tượng của Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước, một học giả dẫn ra một ví dụ cũng rất ấn tượng. Đó là buổi nói chuyện của Nhật Hoàng với công chúng Nhật trong chương trình Thời sự trên VTV1. “Bản tin ghi hình cho thấy, Nhật Hoàng ngồi trên chiếc ghế hết sức bình thường, không có chạm trổ. Còn chiếc bàn trước mặt đặt micro giống như bất cứ chiếc bàn nào trong các quán cafe bình dân”.
Điều giản dị này, ta có thể thấy trong nhiều vị nguyên thủ các nước, thấy ngay ở Bác Hồ của chúng ta. Không phải trong những năm kháng chiến gian khổ, Bác làm việc ngay trên phiến đá chông chênh kê bên bờ suối, mà sau này, khi về giữa Thủ đô, Người vẫn ngồi viết trên chiếc ghế tre và chiếc bàn tre.
Dân còn nghèo, nên Bác sống rất đạm bạc tằn tiện. Bữa ăn của Người là bữa ăn của một nông dân nghèo. Chỉ có khúc cá, đĩa rau, mấy quả cà muối. Tiếp khách quốc tế, Bác vẫn mang trang phục của một người nông dân nghèo. Bộ quần áo nâu và đôi dép cao su. Một đồng chí cán bộ tỉnh ái ngại: “Thưa Bác, Bác thay mặt cho Đảng, cho Dân, Bác vất vả thế này, có khi bạn bè quốc tế lại trách Đảng, trách Dân không chu toàn với Bác…”. Bác cười điềm đạm: “Bác sống thế này mà ở dưới, có chú còn nhũng nhiễu làm khổ dân. Bác mà sống xa hoa thì ở dưới các chú đục khoét hết của dân à?”.
Cuộc đời của Bác, nếp sống của Bác là một bài học lớn cho các cán bộ cấp dưới. Ta hiểu vì sao trong những năm chiến tranh, đất nước loạn lạc, mà xã hội lại rất thanh bình, lòng dân không ly tán. Ra đường không lo trấn lột. Về nhà không sợ trộm cắp. Cũng không có tham nhũng, đĩ điếm. Một đời sống lành mạnh giữa một bầu khí quyển trong veo.
Chúng ta đang học tập tư tưởng, đạo đức của Bác. Nhưng chúng ta học được những gì, khi rất nhiều cán bộ, những “đày tớ của dân” sống quá xa hoa. Có ông đánh bạc đến cả tỷ đồng. Có ông sống còn hơn cả Hoàng đế. Và nói như nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, xây trụ sở tỉnh như cung điện trong khi tỉnh lại rất nghèo. Ký giả Lê Đức Dụ đặt câu hỏi: Nhìn hình ảnh những trụ sở - công sở nguy nga ấy, không biết người ta có nhớ đến những ngôi trường tạm bợ, cột tre, phên nứa và mái lợp bằng tấm bạt nhựa vẫn còn rất nhiều nơi rẻo cao biên ải? Có nhớ tới những túp lều trọ học chênh vênh bên bờ suối, triền đồi? Có nhớ tới những đứa trẻ phải dùng cặp sách làm phao bơi qua sông đi học, đánh đổi mạng sống của mình chỉ vì thiếu một cây cầu nhỏ? Chính vì thế, câu hỏi của ông Ksor Phước: “Dân ta đang nghèo như vậy, xây trụ sở hoành tráng để làm gì?”, không chỉ là một câu hỏi, đó là điều cần được giải quyết bằng những bài toán rạch ròi và minh bạch về tiêu chuẩn diện tích làm việc, về tiêu chuẩn tiện nghi, về số tiền đã lãng phí và cần công khai cho người dân - những người đóng thuế để xây dựng lên những “trụ sở cung điện” ấy được biết.
Chắc chắn không một ai muốn rằng, sau câu nói thẳng thắn ấy, mọi chuyện vẫn đâu vào đó để rồi những “cung điện” cứ tiếp tục mọc lên trong khi không thiếu những mái trường qua mỗi mùa mưa nắng lại xơ xác hơn, ọp ẹp hơn đến đau lòng!
Tôi không thể điểm hết tiếng nói của dân trong một bài báo ngắn này. Không ít người tỏ ra lo ngại. Bởi đó là tệ nạn không thể ngăn cản được. Không phải chỉ ở cấp tỉnh, mà cả ở cấp huyện, cấp xã, trụ sở cũng rất “hoành tráng”. Nhiều người cứ “vẽ ra” rồi đi chạy dự án xây dựng. Có dự án là có tiền. Trụ sở cơ quan nào bây giờ xây dựng cũng to cả. Càng xây to thì phần trăm của sếp càng lớn. Thế thì ai dại gì mà không xây.
Cấp trên đi giám sát, thấy cấp dưới xây trụ sở to như cung điện, không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của người dân thì phản ánh thế thôi. Phải kết luận xây trụ sở to thì sai phạm ở điều nào, mục nào để xử phạt. Văn phòng cơ quan nhà nước muốn xây dựng cũng phải trải qua bao nhiêu là cửa thẩm định, phê duyệt, phê duyệt từ trên xuống dưới, chứ có phải một người có thể tự ý làm được đâu.
Bùng nhùng qua rất nhiều khâu, liên quan đến rất nhiều người. Tiền thất thoát cũng là ở đấy, chứ đâu phải chỉ từ các công trình xây dựng. Và rồi khi xảy ra vụ việc thì chẳng có ai phải chịu trách nhiệm cả. Điều ấy mới thật sự đáng lo ngại.
Trần Đăng Khoa