Cách đây 84 năm, ngày 28-1-1941 (mùng 2 Tết Tân Tỵ), sau 30 năm chân không nghỉ đi “tìm hình của nước”, Bác Hồ trở về với Tổ quốc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sự kiện này đặt dấu mốc trọng đại đối với cách mạng và lịch sử dân tộc ta. Kể từ đó, cột mốc 108 biên giới Cao Bằng, hang Pác Bó, núi Các Mác, suối Lênin trở thành địa danh lịch sử, nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các văn nghệ sĩ nước nhà.

Trước hết, có thể kể đến những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu miêu tả hình ảnh thiêng liêng Bác Hồ đứng lặng hồi lâu khi đặt những bước chân đầu tiên lên giải biên cương Tổ quốc: “Ôi sáng xuân nay, Xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/… Bác đã về đây Tổ quốc ơi!/ Nhớ thương, hòn đất ấm hơi người/ Ba mươi năm ấy chân không nghỉ/ Mà đến bây giờ mới tới nơi!”.

Chế Lan Viên đã khắc hoạ qua những câu thơ hết sức hình tượng Bác về mang theo cả ánh sáng Chủ nghĩa Mác - Lênin: “…Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt/ Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi/ Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất/ Lắng tai nghe màu hồng, hình đất nước phôi thai…”.

Sau khi Bác mới về nước không lâu, nhà cách mạng Cao Hồng Lãnh đã có bài thơ “Bác về Pác Bó” với những câu đầy ấn tượng: “Bao năm trông Bác, Bác về đây/ Đất nước non sông, nở mặt mày/ Cách mạng từ đây bừng rực đỏ/ Bắc Nam đỏ cả một ngày mai”. Là người cộng sản, tác giả nắm chắc qui luật phát triển tất yếu của lịch sử, biết rõ con đường tất thắng của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Bác Hồ kính yêu.

Nơi Bác về cách đây 84 năm, Pác Bó, cảnh trí sơn thuỷ hữu tình, nước non đẹp như tranh đã tạo nên nguồn cảm hứng cho chính Bác Hồ; Người đã để lại chùm hai bài thơ đặc sắc là “Pác Bó hùng vĩ” để gửi tâm tư, ước vọng to lớn của mình vào trong đó “Non xa xa, nước xa xa/ Nào phải thênh thang mới gọi là/ Đây suối Lênin, kia núi Mác/ Hai tay xây dựng một sơn hà”. Và bài “Tức cảnh Bác Bó” để thể hiện niềm lạc quan của lãnh tụ cách mạng: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang/ Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng/ Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng/ Cuộc đời cách mạng thật là sang”.

Năm 1970, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã phổ nhạc một ca khúc theo lời trường ca “Theo chân Bác” của Tố Hữu với giai điệu then của dân tộc Tày: “Ai đã đến, ai chưa đến đó/ Có hòn núi Mác - suối Lênin/ Hãy về thăm quê Pác Bó/ Nơi Bác về, nguồn nước mới sinh/ Hỏi dòng khe ấy, hỏi tre lau/ Những tháng ngày xưa… Bác ở đâu/.. Hang lạnh nhớ tay Người đốt củi/ Bập bùng lửa cháy suốt đêm thâu/ Ai hay ngọn lửa trong đêm núi/ mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau”.

Viết về Bác những tháng ngày ở Pác Bó, mỗi nhà thơ đều có cách thể hiện riêng cho mình trong luồng cảm xúc chung đó là kính trọng, thương yêu, đầy cảm phục: “Hang Pác Bó, đấy là căn cứ đầu tiên của nước/ Bác rất ung dung bên tượng Mác cười/ Bàn đá bên hang, Bác ngồi dịch sử/ Suối Lênin reo vào giữa thơ Người” (Đi giữa mùa Xuân- chế Lan Viên); “Núi cao bao nhiêu ngọn/ Núi bao nhiêu hang sâu/ Khi Cụ Hồ chưa đến/Ai biết đâu là đâu/ Nước trong xanh dòng suối/ Trải mưa nắng bao đời/ Khi Cụ Hồ chưa tới/Ai biết dòng đầy vơi/ Từ khi hang Cốc Bó/ Được đón tiếp Già Thu/ Từ đấy tên Pác Bó/ Gắn với tên Cụ Hồ...” (“Pác Bó”- Nông Quốc Chấn); “... Một vùng thuần khiết non xanh/ Như mang ánh mắt tinh anh Bác Hồ/ Hãy còn bàn đá nhấp nhô/ Bác ngồi dịch sử, nghĩ cho muôn đời...” (“Thăm Pác Bó”  - Xuân Diệu); “Một thiên nhiên hùng vĩ/ Tạc hình ông già tiên/ Mặt trời trên đỉnh núi/ Tỏa hào quang đêm đêm” (“Đêm về trên Pác Bó” - Lê Chí Thanh). Với bài “Suối Lênin”, nhà thơ Trần Văn Loa đã thể hiện tình cảm sâu lắng đầy kính trọng, mến phục của mình đối với vị Lãnh tụ của dân tộc khi tác giả về thăm suối Lênin: “Ơi con suối xanh xanh/ Dáng mềm mại thanh thanh/ Xưa Bác ngồi câu cá/ Vầng trán rộng mênh mông/ Bác làm thơ cho suối/ Đặt tên gọi Lênin/ Bác uống nước dòng suối/ Để thành máu nuôi tim/ … Bước Bác đi sớm tối/ Mang xuân về đó đây.../ Đây con suối Lênin/ Xưa Bác ngồi câu cá?/ Bên núi cao Các Mác/ Vạch con đường đấu tranh...”.

Bác về, sau 30 năm “đi vòng quả đất” đã khơi dậy dòng thác cách mạng. Một dòng thác như ngọn lửa truyền kỳ: Lửa bùng lên từ Hội nghị T.Ư Đảng lần thứ 8 họp ở Khuổi Nậm (tháng 5-1941) đến thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944); lửa cháy bùng lên thành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám 1945, lập nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; lửa tiếp tục bùng cháy thiêu đốt bọn thực dân cướp nước “Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” (7-5-1954); ngọn lửa cách mạng với sức mạnh vô song đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, và “Toàn thắng về ta”. Ngọn lửa Bác Hồ thắp ở Pác Bó được Đảng ta không ngừng tiếp nguồn năng lượng mãi bùng cháy cho đất nước Việt Nam của chúng ta hôm nay với vị thế sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Pác Bó và Bác Hồ - vị Cha già kính yêu, Người hy sinh cả cuộc đời của mình cho dân, cho đất nước mãi là nguồn cảm hứng vô tận cho thi ca. Các nhà thơ với tấm lòng biết ơn sâu sắc công lao trời biển của Bác đã ghi lại cảm xúc của mình mỗi khi về thăm Pác Bó, mỗi khi nghĩ về Bác kính yêu với một tâm niệm: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.

Xuân Ất Tỵ, đã 56 mùa Xuân Bác đi vào cõi trường sinh, nhưng mỗi khi đọc những vần thơ của Bác, bài thơ viết về Bác, mỗi chúng ta lại thấy: “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn để rồi… Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước/ Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau” (Tố Hữu). Và để kết thúc bài viết này, tôi xin trích một khổ thơ của mình viết về Bác như một lời chân thành gửi tới bạn đọc gần xa và kính dâng lên Bác nhân kỷ niệm 84 năm Bác trở về Tổ quốc: “Lòng con kính Bác vô ngần/ Bác đi xa vẫn thấy gần, lắm thay/ Chúng con có được hôm nay/ Nhờ công ơn Bác những ngày xa xưa/ Nói sao cho thấu, cho vừa/ Đành xin chắp bút lời thơ dâng Người”.

Quang Chiêm