
Bìa cuốn sách “Những gì họ đã mang theo” của nhà văn Tim Obrien.
Vị CCB Mỹ ấy là Tim Obrien. Ông là một nhà văn lớn, rất nổi tiếng của Mỹ. Và ông cũng là một trong số rất ít nhà văn ở Mỹ chỉ sống bằng nghề. Nghĩa là ngoài viết văn, ông không làm bất cứ một việc nào khác.
Một trong những cuốn sách làm nên tên tuổi ông, đưa ông lên đài cao vinh quang, khiến ông nổi tiếng khắp nước Mỹ và mỗi năm được in lại đến hàng triệu bản, là cuốn sách viết về cuộc chiến tranh ở Việt Nam: “Những gì họ đã mang theo”. Vậy đó là những gì?
- Là ba lô, đạn dược, súng ống. Nghĩa là những trang bị của lính. Tất nhiên là như thế rồi. Người lính nào ra trận mà chả có những thứ ấy. Đó là phần xác, phần ai cũng nhìn thấy. Còn phần hồn, họ mang nặng hơn nhiều. Ấy là nỗi ám ảnh về cuộc chiến tranh và những mặc cảm tội lỗi. Trang bị lính, họ chỉ đeo một giai đoạn ngắn, thường là khoảng 1 năm. Còn nỗi ám ảnh chiến tranh, những mặc cảm tội lỗi thì ám họ đến suốt đời. Bởi thế, người lính Mỹ nào đã (nhỡ tay) từng giết người ở Việt Nam, trông họ là nhận ra ngay.
Tim Obrien giải thích bằng một giọng khàn khàn. Trông ông chả giống nhà văn, cũng chẳng ra một gã lính Mỹ. Chiếc mũ vải đỏ lúc nào cũng dính chặt vào đầu. Tấm áo may ô cũng mang màu đỏ, quần soóc đỏ, giày thể thao, ba lô thể thao. Trông ông như một vận động viên leo núi. Có lẽ nhà văn lớn là như thế chăng? Là người lúc nào cũng phải vượt núi.
- Tôi sang Việt Nam cũng là vì hèn nhát - Tim Obrien tâm sự - hồi là sinh viên, tôi đã lên án và chống lại cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Nhưng tôi không đủ dũng cảm để ngồi tù, hoặc trốn sang Canada. Thế là tôi bị cuốn vào cuộc chiến. Tôi sang Việt Nam năm 1969. Từ ô cửa sổ máy bay, nhìn xuống khu Cam Ranh và mặt đất mới thật sự là khiếp đảm. Trông nó cứ âm u, bí hiểm và lạnh ngắt như những nấm mồ. Lúc đó, tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất: Tôi sẽ chết ở Việt Nam. Chết ngay trong năm 1969, khi tôi mới 22 tuổi. Không ai có thể cứu tôi thoát khỏi cái chết.
Tim Obrien dừng lại, nghiêng mũ lắng nghe tiếng chuông gió nhỏ từng giọt trong vắt vào làn sương mù lãng đãng, thấm đậm mùi thảo mộc của mấy miệt vườn xanh om quanh khu biệt thự làm bằng gỗ sồi ở ngoại ô T.P Boston.
- Ấy thế mà tôi lại không chết, không chết, ông Khoa ạ. Nói đúng ra là Chúa đã cứu tôi. Vị Chúa ấy, tôi đeo trên lưng. Đó là cái máy thông tin bộ đàm. Nó đã che chắn cho tôi. Nhờ thế, tôi chỉ bị thương. Còn nó thì nát bét. Vướng mìn Việt cộng mà. Quả mìn rất quái đản, chế tạo bằng vỏ hộp bia Mỹ.
- Thế thì ông đụng phải du kích địa phương rồi, không phải quân chủ lực của chúng tôi đâu.
- Vâng, tôi cũng chả biết thế nào. Hình như đó là Tiểu đoàn 48 Quảng Ngãi. Mãi sau này, hoà bình rồi, sang Việt Nam, tôi mới có dịp được gặp vị “Thống soái” của đội quân bí hiểm ấy. Đó là một ông già nhỏ bé, chột mắt. Ông ta bị thương 16 lần, mang một chân gỗ, thế mà đi cứ thoăn thoắt. Có điều đến đâu, ông ta cũng được nhân dân sùng bái, mến mộ. Bởi thế, chúng tôi thua là phải. Thắng sao nổi những người hiền lành như thế. Gặp tôi, ông bắt tay, cười hề hề, rồi kéo tôi ra nghĩa địa, một khu nghĩa địa vùng nước mặn Sơn Mỹ. Có đến hàng ngàn ngôi mộ. Họ sửa sang mồ mả, rồi bày xôi thịt ra mộ, đặt trên những tấm lá chuối, rồi thắp hương, cầu nguyện. Người Việt có một đức tính rất hay là họ không thù dai. Thấy tôi, họ "hê-lô", rồi mời tôi ngồi bệt xuống rãnh mộ, ăn tiệc cúng. Tiệc bày toàn những miếng mỡ lợn trắng hếu. Tôi nhìn họ kinh ngạc. Chả lẽ Việt cộng là những người này ư?
- Thế những năm chiến tranh, ông có thấy họ không?
- Thấy họ thì toi mạng rồi. Họ xuất quỷ nhập thần. Tới nơi, chẳng thấy gì ngoài mặt đất thật thà và chất phác. Bởi vậy, tôi có cảm giác như chúng tôi đã đánh nhau với mặt đất. Mà mặt đất thì xưa nay, nhân loại chẳng có ai tiêu diệt được, cũng chẳng có ai chạy thoát được.
Và như thế, Tim Obrien đã gặp Blaga Đimitrôva. Hai nghệ sĩ này đã nhìn cuộc chiến tranh Việt Nam bằng con mắt giống nhau. Năm 1968, trước khi Tim Obrien sang Việt Nam 1 năm, nhà thơ Bungari - Blaga Đimitrôva đã hé ra cái ý nghĩ của nhà văn Mỹ sau này: Cuộc chiến tranh giữa Đất và Trời - Ai sẽ thắng? Tôi không hay, chỉ thấy - Kẻ bị thương trên trời thì rơi - Đất bị thương thì vẫn còn nguyên đấy.
- Nếu cần nói đôi điều về cuốn sách của mình, ông sẽ nói gì?
- Cuốn sách của tôi là tập ký ức, hay nói đúng hơn là nỗi ám ảnh của những người lính Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bởi thế, tôi chia làm ba phần. Phần một là thời gian ở Việt Nam. Phần hai là thời gian hiện tại. Phần ba là tuổi thơ đan chen. Nhưng tôi viết phóng khoáng. Mỗi mảng là một câu chuyện, có khi một sự kiện hoặc một tình tiết, nhưng được viết một cách độc lập, đứng tách ra thành từng chuyện riêng. Gộp tất cả lại thì nó lại giống tiểu thuyết. Bởi thế, tôi chả biết gọi nó là cái gì. Truyện ngắn à? Không phải! Tiểu thuyết à? Hình như cũng không phải. Thôi, ta cứ gọi nó là cuốn sách.
- Tôi rất mong cuốn sách của ông sớm có mặt ở Việt Nam. Nếu cần nhắn với độc giả Việt Nam một câu thật ngắn gọn, ông sẽ nói gì?
- Tôi chỉ mong hòa bình. Hòa bình mãi mãi!
Trần Đăng Khoa