Bernadette là con gái đầu lòng của một gia đình thợ may nghèo ở Louders, miền nam nước Pháp, từ nhỏ đã ốm yếu vì bệnh hen. Vào năm 1858, khi 14 tuổi, cô bé nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra nguyên hình trong một cái hang gần sông Gave, khi cô nhặt củi ở đó, nên về kể với mẹ.

Tin đồn lan ra, và dĩ nhiên rất nhiều người không tin. Trong vòng 5 tháng sau đó, cô bé còn được thị kiến Đức Mẹ thêm 17 lần, khiến đám đông đổ về hang ngày một đông. Điều đó khiến cô thiếu nữ gặp nguy hiểm bởi sự cảnh cáo, đe dọa của nhà chức trách. Tuy nhiên, Bernadette vẫn trung thành với những gì mình nhìn thấy thay vì tuyên bố mình nói dối như nhà chức trách yêu cầu.

Người dân càng tin vào Bernadette hơn khi có một dòng suối chảy ra từ hang do cô đã dùng tay đào theo chỉ dẫn của Đức Mẹ, và nước suối ấy được cho là chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Trong một lần hiện ra với Bernadette, Đức Mẹ nói muốn xây một nhà thờ tại đây, nhưng nhà chức trách tìm cách ngăn cản, cũng như đóng dòng suối lại. Nhưng tiếng tăm về Bernadette và Đức Mẹ trong hang đã đến tai Hoàng hậu nước Pháp, và bà đã can thiệp để nhà thờ được xây dựng.

Năm 22 tuổi, Bernadette được vào tu viện đúng như khao khát của cô, dành hết tâm sức để thờ Thiên Chúa và làm những việc thiện nguyện. Nữ tu sĩ qua đời ở tuổi 35 (năm 1879).

Năm 1913, Bernadette được Giáo hoàng Pius X phong thánh, mộ của bà lần đầu tiên được mở ra và mọi người ngạc nhiên bởi thi hài bà vẫn y nguyên như lúc còn sống. Do hoàn cảnh chiến tranh (Chiến tranh Thế giới thứ nhất 1914-1918), các nghi thức bị gián đoạn nên đến năm 1919, mộ của bà lại được mở ra lần nữa để hoàn tất các nghi lễ.

Lúc này, Bernadette đã qua đời được 30 năm. Bác sĩ phẫu thuật Tourdan, người chứng kiến sự việc, kể lại: “Quan tài được mở ra dưới sự chứng kiến của nhiều người, trong đó có tôi. Thi thể thánh nữ trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú uế. Khuôn mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu bà nghiêng sang một bên, miệng hé mở để lộ hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, lớp da vẫn hoàn hảo”.

Theo mô tả của những người khác, đầu gối bên trái của thánh nữ nhỏ hơn bên phải do ảnh hưởng của chứng bệnh lao xương mà bà mắc phải. Trang phục của bà hơi ẩm ướt, cỗ tràng hạt bà cầm cũng như tượng thánh bằng đồng trên ngực đã rỉ sét, nhưng lạ kỳ là da thịt lại vẹn nguyên, các khớp xương vẫn mềm mại và da vẫn đàn hồi, tươi tắn. Thánh nữ Bernadette được thay y phục mới và mai táng trở lại.

Năm 1925, Đức Giáo hoàng Pius XI phong thánh lần nữa cho Bernadette, và mộ bà lại được mở ra lần thứ ba. Kỳ lạ quá, bà vẫn mang dung nhan thánh thiện, đẹp đẽ như đang nằm ngủ, duy có da mặt hơi sẫm hơn một chút do bị lau rửa lần trước. Sau khi bọc sáp gương mặt và tay, di hài được đưa vào quan tài bằng pha lê đặt ở nhà nguyện tại Lourder cho đến tận ngày nay cho mọi người kính ngưỡng.

Lourder - quê hương Bernadette đã trở thành một trong những điểm hành hương lớn nhất của các tín đồ Thiên Chúa giáo, và dòng suối nhỏ được bà đào theo chỉ dẫn của Đức Mẹ vẫn cung cấp nước cho khách thập phương đến tận ngày nay.

Nếu như hầu hết thi thể tồn tại qua thời gian đều là kết quả của sự bảo quản kỳ công, hoặc thi hài tình cờ được ở trong môi trường đặc biệt để vi khuẩn và sự oxy hóa không “tác quái” được, thì trường hợp thi thể thánh nữ Bernadette lại khác. Khi qua đời, bà chỉ ở địa vị một nữ tu sĩ bình thường, thậm chí bị mẹ bề trên ghét bỏ, nên thi thể được mai táng hoàn toàn theo cách bình thường, không có một tác động nào nhằm mục đích bảo quản thi hài.

Môi trường nơi đặt thi thể bà cũng hoàn toàn bình thường, nghĩa là những thi thể khác đặt ở đó vẫn rữa nát nhanh chóng theo quy luật tự nhiên. Các nhà khoa học không lý giải được tại sao, còn những người tin vào tâm linh thì cho rằng, chính hồng ân của Thiên Chúa và Đức Mẹ đã tạo ra phép lạ cho người con gái thánh thiện của các ngài.

Hoàng Nguyễn