“KỶ NGUYÊN MỚI” LIỆU CÓ PHẢI LÀ SỰ “CHỦ QUAN, DUY Ý CHÍ” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?

         “Kỷ nguyên mới” là bước phát triển lý luận của Đảng ta, được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội, phản động đang ra sức kêu gào rằng: xác định “kỷ nguyên mới” thể hiện sự “chủ quan, duy ý chí” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề này là nhiệm vụ cấp thiết nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, củng cố niềm tin, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội về con đường, mục tiêu, động lực phát triển đất nước, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Các phần tử cơ hội chính trị, phản động, các thế lực thù địch vẫn ra sức xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận “kỷ nguyên mới”. Chúng lu loa cho rằng: đó là một khái niệm “trống rỗng, mơ hồ”, không có cơ sở nào để xác định “kỷ nguyên mới”. Chúng cũng lớn tiếng rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quá tham vọng, thể hiện sự “chủ quan, nóng vội, duy ý chí” của Đảng cầm quyền. Chúng còn mạnh miệng bảo rằng chủ trương của Đảng ta “vội vàng” trong xác định kỷ nguyên mới nên những mục tiêu, tầm nhìn trong kỷ nguyên mới “không có tính khả thi”… Trong khi đó, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, chưa có tiền lệ. Ở trong nước, nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài cần được giải quyết. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch ra sức đánh lạc hướng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân ta; kích thích tâm lý bi quan, mơ hồ, chán chường của một bộ phận người dân nhẹ dạ cả tin khi nhìn nhận tương lai của dân tộc. Trước tình hình đó, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần tỉnh táo, cảnh giác cao và nhận rõ đó là những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc, hòng chống phá vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, làm nhụt chí quyết tâm của toàn dân tộc trên con đường phát triển giàu mạnh, phồn vinh.

Luận cứ khoa học đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch về “kỷ nguyên mới”

Chúng ta có thể khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “kỷ nguyên mới” là hoàn toàn đúng đắn, khoa học, khả thi với những luận cứ xác đáng, thuyết phục; chứ không phải là sự “chủ quan, duy ý chí” như kẻ thù bóp méo, xuyên tạc.

Thứ nhất, vai trò của lý luận tiên phong và tư duy đổi mới.

Lý luận cách mạng, khoa học có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội nói chung và đối với các Đảng Cộng sản nói riêng. Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân như C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định. Những người cộng sản phải luôn tiên phong về lý luận; họ luôn hiểu rõ điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào. V.I.Lênin nhấn mạnh: lý luận cách mạng có tầm quan trọng đặc biệt đối với phong trào cách mạng và đối với chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Ông chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”[*]; “chỉ đảng nào được một lý luận cách mạng tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”[†].

Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng ta cũng chỉ rõ vai trò rất quan trọng của lý luận: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[‡]. Đội ngũ cán bộ, đảng viên cần có tư duy sáng tạo trong công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn: “lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”[§].

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm nhiệm vụ. Đại hội VI, đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước đã nhấn mạnh đổi mới tư duy: “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy… Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin”[**]. Sau 40 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã vận dụng đúng đắn và góp phần phát triển sáng tạo lý luận về một thời kỳ phát triển vượt bậc của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với cách diễn đạt là “kỷ nguyên mới”, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

Thứ hai, sự vận dụng, cụ thể hóa và phát triển lý luận về một thời kỳ cách mạng mới.

C.Mác và Ph.Ăngghen với tinh thần cách mạng, khoa học đã nêu rõ trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” - Cương lĩnh đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: cách mạng vô sản phải trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, giai cấp vô sản đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, trở thành giai cấp dân tộc; Giai đoạn thứ hai, “Giai cấp vô sản dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”[††]. Hai ông chỉ rõ, cách mạng vô sản - cuộc cách mạng toàn diện nhất, sâu sắc triệt để nhất, cuộc cách mạng cuối cùng trong lịch sử loài người sẽ phát triển liên tục, với nhiều giai đoạn khác nhau, để đi đến “một liên hợp” mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã khẳng định: cách mạng dân chủ tư sản (kiểu mới) sẽ chuyển biến sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; hai giai đoạn này không có bức tường nào ngăn cách. V.I.Lênin lưu ý đối với những nước thuộc địa, mục tiêu của cách mạng dân chủ tư sản (kiểu mới) là giành độc lập dân tộc, dân chủ, tạo cơ sở tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. “Từ cách mạng dân chủ, chúng ta sẽ bắt đầu chuyển lên ngay và chính tùy theo lực lượng của chúng ta, lực lượng của giai cấp vô sản giác ngộ và có tổ chức, mà chuyển ngay lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chủ trương làm cách mạng không ngừng, chúng ta quyết không dừng lại nữa chừng”[‡‡].

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định dứt khoát: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[§§]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta (tháng 2 năm 1930) xác định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[***]. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là điều kiện, tiền đề tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Lý luận về kỷ nguyên mới chính là sự kế thừa, vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai đoạn phát triển mới của đất nước. Kỷ nguyên mới tiếp nối hai kỷ nguyên trước đây, thể hiện sự phát triển liên tục của cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Kỷ nguyên mới là thời kỳ đất nước phát triển vượt bậc, thực hiện thành công những mục tiêu, tầm nhìn chiến lược, từng bước hiện thực hóa những mục tiêu lớn lao, cao đẹp của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ ba, sự kế tục và phát triển khát vọng lớn lao của toàn dân tộc.

C.Mác khẳng định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”[†††]. Rõ ràng, lý luận, ý thức không thụ động mà có tính năng động, sáng tạo, tác động to lớn trở lại thực tiễn; khát vọng sinh tồn và vươn lên là động lực quan trọng góp phần quyết định sự hình thành, phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia - dân tộc.

Với ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ từ khó khăn, nghịch cảnh; sự chung sức, chung lòng của chính quyền và người dân, nhiều quốc gia dân tộc trên thế giới đã phát triển vượt bậc như: “Thần kỳ Nhật Bản”, “Kỳ tích sông Hàn”, “Câu chuyện thần kỳ” Singapore… Nhờ thực hiện thành công những chính sách kinh tế ưu việt, cải cách bộ máy, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, chỉ trong khoảng 30 - 35 năm, những nước này đã tăng quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người lên gấp hàng trăm lần; từ những nền kinh tế nhỏ bé, đơn điệu, bị phụ thuộc nước ngoài và bị tàn phá bởi chiến tranh đã vươn lên trở thành những nền kinh tế năng động hàng đầu thế giới; đời sống của người dân được cải thiện vượt bậc.

Đối với Việt Nam, trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, khát vọng độc lập, tự chủ, giàu mạnh thật sự là cội nguồn của những chiến thắng chống ngoại xâm oanh liệt, vươn lên phát triển về mọi mặt. Từ thời đại Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã đánh thắng tất cả các thế lực hung bạo nhất, giữ vững nền độc lập dân tộc, bờ cõi và chủ quyền quốc gia. Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, Việt Nam đã đánh tan các thế lực thực dân, đế quốc, phát xít, phong kiến; giành và giữ độc lập dân tộc, thu non sông về một mối, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi vẻ vang đó khởi nguồn từ khát vọng mãnh liệt của dân tộc ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “sánh vai với các cường quốc năm châu”!

Sau khi đất nước thống nhất, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới phái Bắc và phía Tây Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới từ Đại hội VI (1986), quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, trở thành nước đang phát triển. Sau 10 năm đổi mới, đến năm 1996, nước ta cơ bản đã khắc phục được cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đến năm 2010 Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng chậm phát triển để đứng vào danh sách các nước có thu nhập trung bình trên thế giới.

Không chỉ dừng lại ở đó, từ Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định chủ trương khơi dậy khát vọng phát triển giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước. Các tầng lớp nhân dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài đã gửi hàng triệu lượt ý kiến tâm huyết, trách nhiệm đóng góp vào dự thảo các văn kiện Đại hội XIII. Chính vì vậy, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc mà Đại hội XIII xác định đã thực sự kết tinh tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm và sức sáng tạo của toàn dân tộc, trên dưới đồng lòng hướng tới và xây đắp tương lai phát triển cường thịnh, trường tồn.

Kỷ nguyên mới mà Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra là sự tiếp nối, kết tục và phát triển đường lối của Đảng ta qua các nhiệm kỳ mà trực tiếp là Đại hội XIII; là sự hòa quyện giữa “ý Đảng” và “lòng dân” ở thời điểm hiện nay; thể hiện tinh thần kiên định, trung thành, đồng thời có sự phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng. Kỷ nguyên mới chứng minh sự đổi mới tư duy mạnh mẽ của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư mà đứng đầu là Tổng Bí thơ Tô Lâm, tạo cơ sở vững chắc cho những bước phát triển nhảy vọt của Việt Nam trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ tư, thời điểm chín muồi để bước vào kỷ nguyên mới.

Gần 100 năm qua, lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại sẽ tạo nên những thắng lợi vĩ đại. Thời điểm hiện nay, cơ đồ đất nước và xu thế thời đại là những tiền đề trực tiếp để bước vào kỷ nguyên mới, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau 40 năm đổi mới, tạo thế và lực vững chắc cho sự phát triển mạnh mẽ, đột phá của dân tộc ta trong giai đoạn tới. Kinh tế - xã hội phát triển; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố tăng cường; quan hệ đối ngoại được mở rộng và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất hơn. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam hiện nằm trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc được giữ vững. Vị thế và uy tín quốc thế của Việt Nam được nâng cao; nước ta thực sự là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”[‡‡‡].Cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của Việt Nam hiện nay đã cho phép dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI.

Tình hình thế giới, khu vực chuyển biến mau lẹ, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Thế giới đang chuyển động, thay đổi có tính thời đại. Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới; đây cũng là cơ hội chiến lược, giai đoạn nước rút của Việt Nam để trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao nhân kỷ niệm 100 thành lập Đảng; tạo nền tảng vững chắc để trở thành nước phát triển, thu nhập cao nhân kỷ niệm 100 năm thành lập nước. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại cơ hội cho một nước đang phát triển như Việt Nam có thể đi trước đón đầu, phát triển nhảy vọt. “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới”[§§§].

Từ những cơ sở lý luận sắc bén và cơ sở thực tiễn sống động nêu trên, chúng ta hoàn toàn nhận rõ sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta mà đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm. “Kỷ nguyên mới” không phải là sự “chủ quan, duy ý chí” như các thế lực thù địch, cơ hội, phản động rêu rao mà đó thực sự là kết tinh “ý Đảng” với “lòng dân”; là sự kế tục và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ; đánh giá đúng đắn cơ đồ đất nước và nắm bắt chính xác bước chuyển của thời đại để hạ quyết tâm bước vào kỷ nguyên mới. Đây là thời điểm chín muồi để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, kỷ nguyên giàu mạnh, phát triển của dân tộc; Việt Nam không thể chậm trễ trong tiến trình phát triển mạnh mẽ của nhân loại.

Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, toàn dân tộc vững bước tiến vào kỷ nguyên mới

Đảng ta từng bước định hình rõ nét nội hàm, mục tiêu, định hướng chiến lược trong kỷ nguyên mới, làm cơ sở dẫn dắt toàn dân tộc tiếp tục giành những thắng lợi mới trong sự nghiệp cách mạng. Đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là “kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao”[****].

Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới:

Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, tập trung tinh gọn bộ máy các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; đổi mới việc quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên trong sạch vững mạnh; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động của Đảng.

Hai là, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Chủ động, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới.

Ba là, tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực; cơ cấu lại tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.

Bốn là, đổi mới công tác cán bộ, nhất là công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người; xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Năm là, đẩy mạnh phát triển kinh tế. Đột phá về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển lực lượng sản xuất mới gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất.

Sáu là, xây dựng “phương thức sản xuất số”. Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số. Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức.

Bảy là, đẩy mạnh phòng, chống lãng phí, đồng bộ với phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Hoàn thiện các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; xử lý nghiêm hành vi lãng phí. Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí như “cơm ăn, nước uống, áo mặc hàng ngày”.

Để cụ thể hóa và hiện thực hóa các mục tiêu, tầm nhìn trong kỷ nguyên mới, chúng ta phải nhận diện và vượt qua thách thức, trở ngại, lực cản. “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Cần đặc biệt chú ý giải quyết nạn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực – nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; vượt qua nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và bẫy thu nhập trung bình để đất nước phát triển mạnh mẽ, bền vững.

Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hùng cường; phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo và sức mạnh của nhân dân - chủ thể, trung tâm của kỷ nguyên mới. Đảng, Nhà nước cần xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp, phát huy tinh thần cống hiến của mọi người dân Việt Nam, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Phải biến đường lối, chủ trương của Đảng thành ý chí và quyết tâm hành động của mỗi người dân Việt Nam; sự hài lòng của nhân dân chính là thước đo hàng đầu để đánh giá cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; thật sự là “đạo đức”, là “văn minh”. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược người đứng đầu phải có tâm, tầm, trí, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân trong kỷ nguyên mới. Đảng cầm quyền thông qua Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và những chính sách cụ thể. Xây dựng bộ máy Nhà nước, nhất là chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh, cấp xã) tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, có trách nhiệm với dân, phục vụ nhân dân tốt hơn. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng sẽ được tổ chức năm 2026 và Việt Nam chính thức bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chung sức đồng lòng, triệu người như một, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm, quyết tâm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, tầm nhìn lớn lao trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Hà Nội, ngày 25/10/2021.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/12/2024 “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, Hà Nội,

5. Tô Lâm, Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Thông tấn xã Việt Nam điện tử, ngày 4/8/2024.

6. Tô Lâm, Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới, Thông tấn xã Việt Nam điện tử, ngày 16/9/2024.

7. Tô Lâm, “Cơ sở định vị mục tiêu phát triển và định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, báo Nhân Dân, số 25193, ngày 1/11/2024, tr.2.

8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

14. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.

15. Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023.


[*] V.I. Lê-nin, Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.30.  

[†] V.I. Lê-nin, Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.32.  

[‡] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.273-274.  

[§] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.95.  

[**] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 47, Nxb Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.459.  

[††] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.626.  

[‡‡]V.I.Lênin, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.281.  

[§§] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30.  

[***] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.1.  

[†††] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 580.  

[‡‡‡] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 104.  

[§§§] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/12/2024 “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, Hà Nội, tr.1.  

[****] Tô Lâm, “Cơ sở định vị mục tiêu phát triển và định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, báo Nhân Dân, số 25193, ngày 1/11/2024, tr.2.  

Thượng tá Lê Cảnh Đức

Chính ủy Trung tâm 186, Bộ Tư lệnh 86