Nhà thơ Nguyễn Văn Á và những vần thơ tri ân đồng đội
CCB Nguyễn Văn Á
Đã đi qua con giốc cuộc đời, niềm vui, nỗi buồn và cả những thành công hay thất bại gắn bó ông 27 năm trong đời quân ngũ trước khi trở thành một nhà báo đã để lại trong ký ức nhà thơ Nguyễn Văn Á nhiều kỷ niệm khó quên.
Hơn 20 năm làm “kẻ ăn mày dĩ vãng”, CCB - nhà thơ - nhà báo Nguyễn Văn Á - tác giả ý tưởng, đồng thời là người phối hợp với Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu - nguyên Uỷ viên T.Ư Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng vận động các tổ chức, cá nhân tài trợ kinh phí xây dựng công trình “Khu tưởng niệm 81 liệt sĩ Đại đội 16, Trung đoàn 27”, “Khu tưởng niệm 2.500 liệt sĩ Trung đoàn 27” và “Đền thờ 2.500 liệt sĩ Trung đoàn 27” tại thôn Phương Ngạn, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị để tri ân đồng đội với tổng số tiền gần 15 tỷ đồng.
Là người lính bước ra từ cuộc chiến tranh chống Mỹ; chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc, CCB Nguyễn Văn Á đã nhiều lần vuốt mắt tiễn đồng đội về cõi vĩnh hằng. Nỗi đau ấy là chất xúc tác làm bật lên những vần thơ xúc động về người lính chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc; là nỗi đau không thể đền bù của người mẹ mất con trong các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược; là người vợ mang trong đời thảm hoạ da cam thời hậu chiến… đã hình thành một nhà thơ Nguyễn Văn Á nặng lòng cùng đồng đội và quá khứ.
Nhân kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27-7), xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chân dung nhà thơ Nguyễn Văn Á và chùm thơ mới của ông về đề tài thương binh - liệt sĩ.
Tháng bảy về
Tháng Bảy về đất nước của tôi ơi
Là cuộc hành hương về chiến trường khói lửa
Những Cựu chiến binh không còn trẻ nữa
Bước chân run, tóc điểm bạc, da mồi.
Từng đoàn người lặng lẽ bước theo nhau
Đến nghĩa trang suốt chiều dài đất nước
Đốt nén tâm hương tri ân đồng đội
Vì nhân dân dâng hiến cả đời mình.
Ở Nghĩa trang Quốc tế Việt - Lào (1)
Chiều rực cháy một màu hoa đỏ
Bên ngọn nến tri ân màu lửa
Cứ bập bùng thắp sáng cả trời đêm.
Mẹ có về Bến Tắt (2) với con không
Nghĩa trang Trường Sơn bạt ngàn bia mộ
Nơi quần tụ những linh hồn lính trẻ
Trên con đường mang tên Bác (3) thân yêu.
Có nơi nào như Thành Cổ (4) năm xưa
Những người lính đã đi vào huyền thoại
Tám mốt ngày đêm bom trần, đạn rải
Vẫn hiên ngang đánh giặc giữ Cổ Thành
Có ai ngờ Thạch Hãn (5) một màu xanh
Trong phút chốc trở thành dòng sông máu
Bao người lính đã qua đây nằm lại
Làm mái chèo khuấy động mãi niềm đau.
Mấy mươi năm dù đất nước bình yên
Tháng Bảy về Thạch Hãn thành sông lửa
Đêm hoa đăng đồng đội tôi không ngủ
Người mẹ nào thầm khóc gọi tên con.
Nghĩa trang Vị Xuyên (6) lưu dấu mười năm
Tang tóc đau thương đỏ rừng phương Bắc
Bên nấm mộ không tên đội mưa trầm mặc
Lòng mẹ buồn chẳng thể nói cùng ai.
Đất nước tôi Tháng Bảy lại ngân lên
Hai tiếng tri ân anh hùng liệt sĩ
Từ Bắc vào Nam vẫn đang yên nghỉ
Giữa đất trời lồng lộng gió quê hương.
Hà Nội, ngày 1-7-2023.
(1)Nghĩa trang liệt sĩ Quốc tế Việt - Lào ở thị trấn Anh Sơn, Nghệ An.
(2) Bến Tắt ở xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh, Quảng Trị.
(3) Đường Hồ Chí Minh chạy theo Đông và Tây Trường Sơn .
(4)Thành cổ Quảng Trị ở TX. Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.
(5) Sông Thạch Hãn ở phía Bắc TX. Quảng Trị.
(6) Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Vị Xuyên ở tỉnh Hà Giang.
Giọt sương bên cửa sổ
Chị âm thầm gấp lại mảnh khăn trang
Công việc cuối của đời con gái
Khép hy vọng một thời đeo đuổi mãi
Làm niềm tin ảo tưởng của riêng mình.
Tuổi bốn lăm đâu phải chị vô tình
Trước cuộc đời khát vọng nhiều đến thế
Vẫn ao ước một lần thèm trái khế
Chua quặn lòng, hạnh phúc được nâng niu.
Nỗi thiết tha làm mẹ cứ thêm nhiều
Cánh cửa sổ như mắt người khép, mở
Chị đã sống hút tầm thương nhớ
Về phương trời súng nổ phía anh đi.
Một ngày kia chiếc nạng gỗ lầm lỳ
Đều đặn gõ vào nhịp đời của chị
Cái màn khói màu da cam quái dị
Cứ âm thầm gặm nhấm cuộc đời anh.
Giọt sương chiều đã điểm sáng long lanh
Thả khao khát lên tuổi đời xế bóng
Đành gấp lại mảnh khăn lòng nghẹn đắng
Trong ngực đèn hy vọng cứ dần vơi.
Vòm cây nào xào xạc gió không thôi
Lùa nghẹt thở cả căn phòng bé nhỏ
Chị im lặng ngắm nhìn qua cửa sổ
Hứng tơ trời buông đỏ thấm đầy tay.
Để nhớ 60 năm thảm hoạ da cam Việt Nam 1961-2021
Bên nấm mộ không tên
Có phải mày đây không con ơi?
Mộ chí trên tay chữ còn, chữ mất
Mẹ thầm hỏi một mình trong trời đất
Sao vẫn lặng thinh, bia cũ đâu rồi?
Như con chim mẹ cố lần hồi
Thờ thẫn nhặt trên từng nấm mộ
Nén hương cháy kiệt cùng thương nhớ
Phút giây thành đâu chỉ với riêng con.
Gánh thời gian đôi mắt hao mòn
Tờ mộ chí bao lần tay gấp, mở
Lòng những hẹn đưa con về xóm Chợ
Nơi con từng ngóng mẹ mỗi chiều xưa.
Bình rượu kia, và nải chuối bây giờ
Mẹ phân phát, thôi mỗi người một tý
Cho con bớt cô đơn giữa bao đồng chí
Tháng năm còn nằm lại cánh rừng xa.
Đêm xuống rồi thấm lạnh giọt sương sa
Chiếc tiểu rỗng nặng đè trên lưng mẹ
Con ở lại với cánh rừng săng lẻ
Nước mắt cạn rồi - tiếng mẹ lạc về đâu?
Hà Nội, mùa đông 1990
Mệ đừng buồn bên mộ chẳng dòng tên
Đồng đội ơi, nào quần tụ về đây
Những người lính của Trung đoàn Hai Bảy
Chỉ phần mộ chiến trường xưa nằm lại
Bao năm rồi tắm gội gió mưa chan.
Anh em ơi, nào hãy xếp thành hàng
Điểm danh nhé, một… hai… ba… và hết
Bao ánh mắt lần tìm trên bia đá
Dòng tên nào cũng nhức nhối con tim.
Đồng đội ơi, biết chẳng thể kiếm tìm
Những ngôi mộ “vô danh” thời trận mạc
Mười sáu chiếc bia, hơn hai nghìn địa chỉ
Cứ mịt mờ đôi mắt lệ đầy thêm.
Mẹ đừng buồn bên mộ chẳng dòng tên
Cha đừng khóc ngày con không về nữa
Lá xanh rụng, lá vàng chưa kịp úa
Cũng thường tình, cha hãy bớt niềm đau.
Ngày con đi vào chớp bể, mưa nguồn
Lưng mẹ bắc cầu vồng năm tháng
Thương nhớ cũng mang hình viên đạn
Chồng không về, em hoá đá Vọng Phu.
Đồng đội ơi, đừng hờn tủi nữa nào
Ca lên chứ cùng vui ngày hội tụ
Ngôi “nhà chung” chúng mình từng ấp ủ
Chính là đây - đồng đội cứ sum vầy.
Đất linh thiêng bỗng chốc đổ mưa dày
Giọt nước mắt ngày Ngưu Lang - Chức Nữ
Cầu Ô Thước khép nỗi buồn quá khứ
Nén hương chiều, ai thắp cuối trời xa?
Quảng Trị, ngày 24-7-2016
Thạch Hãn chiều nay
Thạch Hãn chiều nay trời có mưa đâu
Chỉ nước mắt tôi khóc bạn ngày chết trẻ
Chỉ nước mắt của muôn nghìn bà mẹ
Chảy xuống thành sông bên lở, bên bồi.
Có một dòng sông Thạch Hãn trong tôi
Là ánh “hoả châu” và “pháo bầy” giặc bắn
Chúng tôi vượt sông khi hoàng hôn tắt
Khúc sông thành “cửa tử” của bao người.
Những người lính trẻ măng từ miền Bắc
Vào Cổ Thành đã nằm lại nơi đây
Cùng Thạch Hãn viết lên thời hoa lửa
Làm bài ca giữ nước đến muôn đời.
Thạch Hãn đêm nay đủ sắc đèn màu
Những quán cà phê xập xình tiếng nhạc
Bao đôi lứa hôn nhau bên bờ sông hoài niệm
Có biết dưới sông kia còn nhiều bạn tôi nằm?
Tuổi trẻ chúng tôi chẳng được thế này đâu
Một mẩu lương khô cũng ấm tình đồng đội
Một lá thư nhà chuyền tay nhau đọc vội
Giữa chiến hào khét lẹt đạn bom rơi.
Mẹ đừng buồn sau làn khói mờ sương
Cha đừng khóc mỗi lần nhìn di ảnh
Xin Thạch Hãn, Cổ Thành đừng ám ảnh
Những linh hồn chưa một nấm mồ chôn.
Hà Nội, ngày 4-10-2020