Nguyên nhân chậm mở Mặt trận thứ hai chống phát xít
Báo tháng 7 - Ngày 18-7-1941, trong bức thư đầu tiên gửi Thủ tướng Anh Churchill, nhà lãnh đạo Liên Xô - Stalin đề nghị Anh “mở chiến trường mới tại phương tây để chống Hitler”. Dù tuyên bố sẵn sàng ủng hộ Liên Xô, nhưng nước Anh lại không vội thực hiện các biện pháp đã cam kết!
Trong thông điệp trả lời Stalin ngày 21-7-1941, Churchill viết: “Các tướng lĩnh Anh không có khả năng tiến hành hoạt động gì để có thể giúp Nga dù ở mức thấp nhất”. Tuy nhiên sau hai tháng tiếp tục trao đổi, ba nước cũng đã đạt được quyết định mở mặt trận quân sự thứ hai chống quân Đức ở Tây Âu ngay trong năm 1942.
Thế nhưng, ngay khi ký bản tuyên bố chung, Thủ tướng Anh Churchill lại nói với phía Liên Xô: “Không thể nói trước rằng tình hình có thuận lợi hay không để tiến hành chiến dịch như dự tính. Vì vậy, chúng tôi không thể hứa trước”. Và 8 ngày sau, Anh đề nghị trì hoãn mở mặt trận này với “lý do về mặt quân sự, kỹ thuật”...
Tháng 8-1942, đúng lúc trận Stalingrad đang diễn ra ác liệt thì Thủ tướng Anh Churchill bay sang Moscow thông báo với Liên Xô rằng: quân Anh, Mỹ sẽ đổ bộ lên châu Âu vào năm 1943; nhưng lại không có một kế hoạch nào cụ thể, mà chỉ bày tỏ “tin tưởng rằng Hồng quân có thể buộc nước Đức quỳ gối trong năm 1943”.
Tháng 5-1943, hội nghị thường kỳ Anh - Mỹ lại một lần nữa đề nghị lùi thời gian mở Mặt trận thứ hai “đến mùa xuân 1944”. Nhưng trước chiến thắng của Hồng quân trong trận Kursk (tháng 8-1943) đã làm thay đổi thái độ của Anh và Mỹ. Họ nhận thấy “quân đội Xô-viết có thể tự lực đánh bại chủ nghĩa phát xít và giải phóng châu Âu”. Họ chuyển sang lo sợ Hồng quân sẽ tiến vào Trung và Tây Âu sớm hơn quân đội của họ.
Mãi đến cuối năm 1943, tại Hội nghị Tehran, nguyên thủ 3 nước Xô-Mỹ-Anh mới đạt được thỏa thuận mở Mặt trận thứ hai. Đây là lần đầu tiên trong Thế chiến thứ hai, ba nước có được sự đồng thuận về các kế hoạch quân sự chủ yếu trong cuộc chiến chống kẻ thù chung.
Ngày 6-6-1944, Mặt trận thứ hai được bắt đầu, bằng cuộc đổ bộ lớn nhất trong lịch sử của liên quân Anh-Mỹ vào bãi biển Normandy qua eo biển Manche (chiến dịch Overlord) và cuộc tập kích của quân đội Mỹ từ phía nam nước Pháp (chiến dịch Envil). Mặt trận phía đông, Hồng quân Liên Xô cũng tiến hành những cuộc phản công chiến lược, quét sạch quân xâm lược ra khỏi đất nước, đồng thời giải phóng các nước Đông Âu khỏi ách phát xít.
Mặt trận thứ hai tồn tại 11 tháng. Trong thời gian đó, liên quân Anh-Mỹ đã giải phóng Pháp, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, một phần lãnh thổ Áo và Tiệp Khắc, tiến vào nước Đức và tụ họp với Hồng quân Liên Xô tại bờ sông Elbe.
Việc Anh - Mỹ cố tình trì hoãn mở Mặt trận thứ hai là nhằm đùn đẩy gánh nặng chiến tranh lên vai Liên Xô. Sự thật là trong 2 năm khi chưa có Mặt trận thứ hai, Hồng quân Liên Xô đã bị tổn thất hơn 5 triệu người cả hy sinh, bị bắt và mất tích.
Tuy muộn, nhưng dù sao Mặt trận thứ hai cũng đã góp phần đẩy nhanh hơn sự thất bại hoàn toàn của Đức quốc xã.
Nguyên Phong