Trần Công Xưa
(ccb phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội)
Ngày 25-8-1973, khi tôi đã có giấy báo nhập học tại Trường trung cấp Điện lực Thái Nguyên thì có lệnh gọi nhập ngũ. Tôi vô cùng háo hức và phấn khởi vì tuổi trẻ lúc đó được lên đường đi chiến đấu là lý tưởng hơn cả.
Hơn một năm sau, vào dịp 22-12-1974 tôi được vinh dự phong quân hàm Hạ sĩ và bổ nhiệm chức vụ tiểu đội trưởng. Tôi vô cùng tự hào, sung sướng. Tôi được biên chế về Trung đội 2, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316, dừng chân trên Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng (Lào).
Cuối năm 1974, chúng tôi được lệnh hành quân từ Xiêng Khoảng về Tân Kỳ, Nghệ An vẫn bằng đôi chân trần. Sau hơn 2 tuần chúng tôi đã có mặt tại thị trấn Tân Kỳ (Nghệ An) với nhiều núi đá làm cho cái giá rét càng thêm cắt da cắt thịt khi mới bước chân về nước.
Tết Nguyên đán năm đó, chúng tôi đang chuẩn bị đón Tết thì bất ngờ có lệnh của cấp trên hành quân cấp tốc. Chúng tôi lên xe đi, chỉ biết rời đất Nghệ An đi chứ cũng không hiểu đi chiến trường nào. Mãi 2 tuần sau khi đi qua các binh trạm chúng tôi mới dần hình thành được hướng hành quân vào phía Nam chiến đấu.
Đầu tháng 2-1975, chúng tôi tập kết trong rừng già cạnh sông Sê-ka-bốc cách Buôn Ma Thuột khoảng 10km. Hằng ngày tôi được các trinh sát của trung đoàn dẫn đi vào khu vực rừng le cho quen địa hình, đêm đi ngày lại quay về nơi tập kết. Sau này tôi mới biết đó là những giờ phút đi để làm quen chuẩn bị cho chiến trường. Ngày 8 và 9-3 năm đó, chúng tôi được lệnh vượt sông vào tiếp cận ngoại vi thị xã Buôn Ma Thuột. Vẫn là ngày giấu quân đêm hành tiến, chúng tôi đã tiếp cận chỉ cách thị xã Buôn Ma Thuột 2km. Trong linh cảm và nhận thức của tôi trận chiến có lẽ sắp bắt đầu.
Trước khi bước vào trận đánh, nhiệt huyết là vậy nên chỉ suy nghĩ là quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, nhưng đây là trận đánh đầu tiên trong đời quân ngũ, lại là chỉ huy tiểu đội ở chiến trường mới lạ, là chỉ huy nhưng chưa ra trận đánh nhau lần nào, chưa hình dung ra được sức mạnh phi pháo, sự yểm trợ tối đa trong tác chiến, tôi thực sự lo lắng. Rồi cái gì đến cũng đã đến, đúng 0 giờ sáng ngày 10-3-1975, Đại đội 2 chúng tôi đánh vào kho Mai Hắc Đế, Sư đoàn 23 ngụy tại thị xã Buôn Ma Thuột. Cuộc chiến diễn ra, bọn địch bị bất ngờ. Theo lệnh của Trung đội trưởng, tôi nhanh chóng ra lệnh cho tiểu đội đồng loạt nổ súng tiến công. Tiếng AK chát chúa, tiếng trung liên giòn tan, xen lẫn tiếng ùng oàng của B40 cùng tiếng tiểu liên cực nhanh AR15 và tiếng của súng phóng lựu M79. Cả hai bên đã xua tan sự yên tĩnh của núi rừng Buôn Ma Thuột. Bộ đội xung phong, đánh cận chiến với địch, cách nhau chỉ vài mét. Khi đánh giáp lá cà, địch nổ súng bắn bừa như vãi đạn. Có tên vừa chạy vừa ghếch súng bắn lên trời như điên. Tiếng la hét xen lẫn tiếng kêu khóc của những người bị thương, loạn xạ khắp trận địa.
Trời sáng hẳn, trận đánh mỗi lúc một ác liệt, quân số thương vong ngày càng nhiều. Khắp nơi cỏ cháy nham nhở, nhà cửa đổ nát, kho tàng vung vãi, số anh em hi sinh nằm lẫn xác quân địch la liệt khắp nơi. Có những đồng chí hi sinh đang đè lên xác địcnh ở tư thế vật lộn; có đồng chí hi sinh mắt vẫn mở trừng trừng như chưa nguôi căm thù địch. Quân địch khi bị ta tấn công phủ đầu đã rối loạn nhưng ít phút sau chúng củng cố lại đội hình co cụm để chống cự. Chúng gọi phi pháo với cường độ cao để yểm trợ tối đa cho bọn lính và phản kích lại ta, nhưng trước sức tấn công mạnh mẽ và bất ngờ của ta khi có xe tăng yểm hộ rầm rộ tiến vào bọn địch vô cùng hoảng loạn hò nhau tháo chạy. Khoảng 17 giờ, trận đánh kết thúc, toàn trận địa không còn tiếng súng.
Trận đánh đầu tiên trong đời quân ngũ ở cương vị tiểu đội trưởng của tôi là vậy.
Đến nay đã 40 năm, những kỷ niệm của một thời trận mạc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với biết bao đồng đội của tôi đã hy sinh, người còn người mất và hầu hết họ đã rời khỏi quân ngũ, nhưng kỷ niệm sâu sắc ấy không bao giờ phai mờ đối với tôi.
T.C.X