Thủ tướng giải trình các vấn đề kinh tế xã hội và trả lời chất vấn (26/11/2011)
Tại Kỳ họp này, đã có 77 đại biểu Quốc hội gửi 145 phiếu chất vấn với 237 câu hỏi đến Thủ tướng và các thành viên Chính phủ; trong đó, có 8 phiếu với 11 câu hỏi chất vấn Thủ tướng.
Sau phần trả lời chất vấn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng báo cáo, giải trình thêm về một số nội dung mà nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri, người dân quan tâm, chất vấn. Đây cũng là những công việc mà Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo trong thời gian tới...
Cập nhật tình hình kinh tế-xã hội, Thủ tướng cho biết, trong tháng 10 và 11 tình hình kinh tế, xã hội có những chuyển biến tích cực, tốc độ tăng giá tiêu dùng tiếp tục giảm, tháng 10 là 0,36%, tháng 11 là 0,39%. Thu ngân sách đạt khá, đến ngày 15/11 đạt khoảng 98,5% kế hoạch; xuất khẩu 11 tháng tăng 34,7% so với cùng kỳ năm trước và gấp 3 lần chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua; nhập siêu 11 tháng giảm còn 10,2% kim ngạch xuất khẩu; lãi suất có xu hướng giảm…
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình kinh tế thế giới vẫn đang diễn biến phức tạp. Theo nhiều dự báo, khủng hoảng nợ châu Âu sẽ nghiêm trọng hơn, có thể đẩy kinh tế khu vực này vào nguy cơ suy thoái, làm cho kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, sản xuất và nhu cầu nhập khẩu sẽ giảm, giá dầu và giá lương thực có khả năng tăng mạnh. Các nhân tố đó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam.
Thủ tướng cho rằng, tình hình trên đòi hỏi chúng ta phải phát huy lợi thế và những kết quả đã đạt được, kiên định các giải pháp đã và đang phát huy hiệu quả, đồng thời theo sát tình hình, kịp thời xử lý những khó khăn, thách thức mới nảy sinh, điều hành linh hoạt, sát thực tế; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2011 và chuẩn bị tốt cho việc thực hiện nhiệm vụ năm 2012.
Thủ tướng cũng trình bày thêm về một số nhóm vấn đề là ổn định kinh tế vĩ mô; tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh; cơ cấu lại nền kinh tế; nông nghiệp và nông thôn và một số vấn đề xã hội bức xúc.
Về ổn định kinh tế vĩ mô, Thủ tướng cho biết với những giải pháp điều hành quyết liệt, tốc độ tăng giá tiêu dùng có xu hướng giảm liên tục trong 6 tháng qua, tính chung 11 tháng tăng 17,5%. Với xu thế này, mục tiêu kiềm chế tăng giá tiêu dùng năm 2011 khoảng 18% là có khả năng thực hiện được. Chính phủ đang chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Đối với giá điện, xăng dầu, than và các hàng hóa, dịch vụ quan trọng khác, Thủ tướng đề nghị Quốc hội ủng hộ chủ trương kiên định thực hiện cơ chế giá thị trường; đồng thời, có hỗ trợ phù hợp đối với các đối tượng chính sách. Chính phủ sẽ xác định lộ trình hợp lý để thực hiện, vừa từng bước tiếp cận giá thị trường, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát.
Cần có các giải pháp phù hợp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng cũng là vấn đề cả nước quan tâm và nhiều vị đại biểu Quốc hội nêu ý kiến. Thủ tướng cho biết thêm, theo khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 9 tháng đầu năm, có trên 48.700 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, tăng 21,8% so cùng kỳ năm 2010.
Việc tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh gắn với nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp được Chính phủ xác định là một nhiệm vụ trọng tâm. Chính phủ đã và đang chỉ đạo thực hiện một số giải pháp chủ yếu như tập trung sức kiềm chế lạm phát, đưa lạm phát năm 2012 về 1 con số; tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính, Chính phủ sẽ xem xét kéo dài thời hạn thực hiện các chính sách hiện hành về hỗ trợ thuế, rà soát các dự án bất động sản, có chính sách phù hợp, nhất là về tín dụng để tháo gỡ khó khăn cho các dự án sắp hoàn thành trong một số lĩnh vực cụ thể...
Về cơ cấu nền kinh tế, Thủ tướng giải trình, làm rõ thêm về ba nội dung là cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại.
Theo Thủ tướng, do tính tương tác, hỗ trợ lẫn nhau, cả ba nội dung tái cấu trúc trên phải được thực hiện đồng bộ, với các chính sách tài khóa, tiền tệ đúng đắn, hiệu quả đi đôi với việc tiến hành đồng bộ 3 khâu đột phá chiến lược. Chính phủ sẽ trình Quốc hội đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng tại kỳ họp tới của Quốc hội.
Về nông nghiệp và nông thôn, trong thời gian tới, Thủ tướng cho biết, sẽ tiếp tục quan tâm tăng đầu tư từ ngân sách và trái phiếu chính phủ cho nông nghiệp, nông thôn. Chính phủ sẽ trình Quốc hội Kế hoạch đầu tư phát triển 3 năm 2013-2015, nếu kế hoạch này được thông qua thì sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (2009-2013) tổng vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ bố trí cho nông nghiệp, nông thôn đạt khoảng 500 nghìn tỷ đồng, gấp 2,76 lần so với 5 năm 2004-2008, vượt mục tiêu Nghị quyết Trung ương 7 đề ra.
Thủ tướng cũng giải trình về một số vấn đề xã hội bức xúc như trật tự an toàn giao thông, giảm nghèo, lao động - việc làm.
Về vấn đề giao thông, Thủ tướng cho biết: “Chính phủ trân trọng đề nghị Quốc hội có Nghị quyết về vấn đề này nhằm thống nhất nhận thức và hành động trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đề cao trách nhiệm và kỷ luật kỷ cương, huy động mọi nguồn lực để thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, tạo chuyển biến mạnh mẽ, thiết thực trong việc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, phấn đấu giảm dần tai nạn và ùn tắc giao thông”.
Về vấn đề tạo việc làm cho người lao động và giảm nghèo bền vững, Thủ tướng cho biết đây luôn được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm. Nhiều chính sách, giải pháp cụ thể đã được thực hiện và mang lại kết quả tích cực. Năm 2011, cả nước tạo được khoảng 1,6 triệu việc làm, đạt kế hoạch đề ra. Về giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 9,45% năm 2010.
Sau khi giải trình, làm rõ thêm một số vấn đề, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời trực tiếp chất vấn của các đại biểu Quốc hội.
22 ý kiến chất vấn Thủ tướng của các đại biểu Quốc hội tại hội trường đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, trong đó, nổi lên là các ý kiến xung quanh giải pháp của Chính phủ nhằm đảm bảo chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, hỗ trợ cho đồng bào ngư dân tiếp tục bám biển, làm ăn, sinh sống và chính sách nhằm quản lý việc khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên khoáng sản của đất nước.
Kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia
Trả lời chất vấn của các đại biểu Lê Bộ Lĩnh (An Giang); Đặng Ngọc Tùng (Đồng Nai) xung quanh vấn đề chủ quyền quốc gia, hỗ trợ ngư dân yên tâm bám biển, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, căn cứ vào chủ trương, đường lối đối ngoại hòa bình tự chủ, độc lập của Đảng, Nhà nước, trên cơ sở luật pháp quốc tế nhất là Công ước quốc tế về Luật biển 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) đã ký giữa ASEAN và Trung Quốc và mới đây nhất là thỏa thuận nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc mới được ký kết, Việt Nam phải giải quyết, khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên biển Đông. Cụ thể: Đàm phán, phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh bắc bộ; chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa; quần đảo Trường Sa và chủ quyền tại vùng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, về Vịnh Bắc bộ, phía trong Vịnh, Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận năm 2000. Vùng ngoài cửa Vịnh Bắc bộ, mới đây, hai bên đã ký thỏa thuận nguyên tắc cơ bản, chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, theo đó, vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vì vậy hai nước cùng nhau đàm phán, giải quyết trên cơ sở Công ước quốc tế về Luật biển, DOC để có giải pháp hợp lý mà hai bên có thể chấp nhận được. Hiện, Việt Nam đang thúc đẩy, đàm phán, giải quyết vấn đề này.
Đối với quần đảo Hoàng Sa, Thủ tướng khẳng định, Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định rằng, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền vủa Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự hai quần đảo này ít nhất từ thế kỷ 17, khi đó 2 quần đảo này chưa thuộc bất kỳ quốc gia nào. Và trên thực tế, Việt Nam đã làm chủ liên tục, hòa bình hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Lập trường nhất quán của Việt Nam là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam chủ trương đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 và DOC.
Trên quần đảo Trường Sa, chủ trương của Việt Nam là nghiêm túc thực hiện Công ước quốc tế về Luật biển 1982 và DOC và các thỏa thuận đã ký giữa Việt Nam và Trung Quốc. Theo đó, các bên giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm tình hình, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết, Chính phủ đã yêu cầu cơ quan chức năng tổng kết, đánh giá cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bào làm ăn, khai thác, thực hiện chủ quyền trên vùng quần đảo này để bổ sung, hoàn thiện nhằm khuyến khích, hỗ trợ cho bà con làm ăn sinh sống, thực hiện chủ quyền trên vùng biển Trường Sa.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Việt Nam nghiêm túc thực hiện và yêu cầu các bên liên quan tuân thủ Công ước quốc tế về Luật biển 1982 và DOC, đảm bảo tự do, trật tự hàng hải, hòa bình và ổn định ở biển Đông. Đây cũng là mong muốn, là lợi ích của tất cả các bên liên quan bởi, khu vực biển Đông có dung lượng vận tải chiếm 50-60% tổng lượng hàng hóa trên cung đường từ Đông sang Tây. Lập trường này của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ủng hộ.
Việt Nam cũng kiên quyết khẳng định chủ quyền trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, một cách ngày càng đầy đủ, hiệu quả hơn, Thủ tướng khẳng định.
Xây dựng Luật biểu tình để tiếp tục đảm bảo quyền lợi cho người dân
Trả lời chất vấn của đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) về cơ sở Chính phủ trình Quốc hội xem xét, xây dựng Luật Biểu tình, Thủ tướng cho biết, căn cứ vào Hiến pháp 1992 và tình hình thực tế, có nhiều cuộc, đồng bào ta tập trung đông người biểu tình, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng và hiện tại chúng ta chưa có luật điều chỉnh vấn đề này. Do đó đã gây khó khăn cho cả người dân tham gia biểu tình và công tác quản lý của chính quyền, làm xuất hiện biểu hiện mất an ninh trật tự và những hành vi lợi dụng, kích động, xuyên tạc gây phương hại cho xã hội.
Trước thực trạng này, Chính phủ đã ban hành Nghị định để điều chỉnh vấn đề này nhưng qua thực tế, Nghị định của Chính phủ chưa đáp ứng được yêu cầu cuộc sống đang đặt ra. Vì vậy, Chính phủ đã kiến nghị Quốc hội xem xét, đưa vào Chương trình xây dựng Luật Biểu tình, phù hợp với Hiến pháp, phù hợp điều kiện lịch sử của nước ta và thông lệ quốc tế, tiếp tục đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân, đồng thời ngăn chặn những việc làm, hành vi xâm hại đến an ninh trật tự, lợi ích của xã hội, người dân.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước và Chính phủ là luôn trân trọng tất cả việc làm của mọi người dân thực sự vì lòng yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Những hoạt động vì mục tiêu đó đều được khen thưởng xứng đáng. Nhưng đồng thời cũng không hoan nghênh và buộc phải xử lý nghiêm những hành vi với động cơ lợi dụng danh nghĩa lòng yêu nước, thực hiện chủ quyền để gây phương hại cho đất nước và xã hội.
Rà soát, đình chỉ các dự án khai thác khoáng sản trái phép, không hiệu quả
Trả lời chất vấn của các đại biểu Lê Hồng Tịnh (Hậu Giang) và Đặng Ngọc Quỳnh (Hưng Yên) về giải pháp của Chính phủ ngăn chặn khai thác quặng trái phép, gây ô nhiễm môi trường, Thủ tướng nêu rõ, tài nguyên, khoáng sản được Nhà nước quản lý, xây dựng quy hoạch khai thác đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh những kết quả, Chính phủ cũng nghiêm túc nhận thấy, thời gian qua, việc quy hoạch, khai thác khoáng sản còn nhiều yếu kém.
Trước tình hình này, Chính phủ đã họp và chỉ đạo một số biện pháp lớn như: Yêu cầu chính quyền các địa phương, cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo, ngăn chặn bằng được việc khai thác khoáng sản trái phép, tự do, gây ô nhiễm môi trường, mất an ninh trật tự tại địa phương. Chính phủ cũng sẽ tạm dừng việc cấp phép khai thác khoáng sản mới. Đồng thời, rà soát các dự án đang khai thác, nếu phát hiện gây ô nhiễm môi trường, khai thác trái giấy phép, gây hư hỏng đường xá, mất an ninh trật tự thì cũng sẽ lập tức bị đình chỉ.
Ngoài ra, Chính phủ tiếp tục rà soát, bổ sung quy hoạch theo hướng khai thác sâu, chế biến sâu, có hiệu quả cao nhất khoáng sản của đất nước. Ngay cả việc xuất khẩu khoáng sản ngay tại dự án, nếu dự án nào làm đúng nhưng hiệu quả xuất khẩu không có lợi so với chế biến thì cũng phải dừng xuất khẩu để tổ chức chế biến, sử dụng tại chỗ.
Chí Đức