Theo trâu vào đồn thu súng giặc
Năm 2008, được làm sách với bác Trần Sự - nguyên cán bộ quân sự địa phương thời kháng chiến, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình sau này, tôi được nghe bác kể nhiều kỷ niệm sâu sắc trong hai cuộc kháng chiến. Chuyện “Theo trâu vào đồn (An Định) thu súng giặc” vào đầu năm 1948, là một trong những kỷ niệm sâu sắc, khó quên. Bác Trần Sự kể:
Sào Nam là một xã thuộc huyện Lê Thủy (Quảng Bình). Xã nằm sâu trong vùng địch hậu, sát quốc lộ 1; phía bắc giáp huyện Quảng Ninh, phía tây là cánh đồng trũng, có phá Hạc Hải, phía đông là dãy cồn cát sát biển - nơi có hệ thống đồn bốt địch khá dày, trong đó có đồn ở khu vực nhà thờ An Định.
Là Trưởng ban Quân sự Huyện đội Lê Thủy, đầu năm 1948 tôi được phân công về Sào Nam nắm tình hình, tổ chức trận đánh vào đồn gần nhà thờ An Định. Về Sao Nam, liên lạc đưa tôi đến gặp anh Vũ (tức Bội) là Huyện ủy viên đang “nằm vùng”, trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy xã, anh Khánh (còn gọi là Khảo) - Xã đội trưởng. Để tiện nắm tình hình, các anh bố trí tôi ở nhà anh Phê - một cơ sở quần chúng vững. Nhà anh Phê ở phía tây quốc lộ 1, đối diện với căn cứ của đám tổng dũng phía đông đường - khu vực nhà thờ An Định. Ở đây gần quốc lộ 1, xe cộ đi lại nhiều, nhưng địch có vẻ chủ quan, ít lùng sục như các nơi khác.
Sau khi tìm hiểu, nắm tình hình, nhất là việc bố phòng của địch, tôi biết đồn An Định nằm trong khu vực nhà thờ, có 21 tên nghĩa dũng, trang bị 15 súng trường, 2 tiểu liên, nhiều lựu đạn. Tên ác ôn nhất trong vùng là tổng Đông, đêm đêm thường vào ngủ trong đồn. Đồn được bao bọc bởi ba lớp rào tre, cây to ken dày, có 4 cửa, nhưng thường mở 1 cửa vào ban ngày, ban đêm chốt chặt. Ban ngày, lính đồn thường đi lùng sục, khống chế nhân dân, tối về chỉ để lại một vài tên canh gác. Thấy bố phòng của địch có vẻ sơ hở, chúng tôi nghĩ có thể bất ngờ đánh vị trí này. Nhưng đánh bằng cách nào, cần bàn tính kỹ. Nếu tập trung lực lượng đánh vào ban đêm không thể thắng, vì vượt qua được ba vòng rào dày đặc kia là không dễ. Chúng tôi đã có kinh nghiệm đánh đồn Phú Thiết gần đây không thành công.
Tìm hiểu thêm, một du kích cơ sở cho biết, hằng ngày bà con thường lùa trâu ra đồng từ sáng sớm và từ đồng về cuối buổi chiều ngang qua cổng đồn, thấy cổng đồn vẫn mở. Thành nếp như thế, nên địch không để ý. Nghe nói vậy, tôi hỏi:
- Mình cải trang đi qua đó, nếu thấy địch sơ hở, xông vào đồn đánh ngay được không?
- Được, khó chi - anh du kích phấn khởi trả lời.
- Thấy người lạ, trâu có lồng lên chạy không? - Tôi hỏi thêm.
- Không lo, đã có bọn tui!
- Chiều nay, mình đi thử, vừa quen với trâu, vừa quan sát cổng đồn được không?
- Được, để tui kêu mấy đứa nữa đi cho nhiều trâu, đông người.
- Đông người có bảo đảm bí mật được không?
- Mấy thằng nớ gan lắm, mưu mẹo lắm; bọn hắn nhiều lần lên chiến khu; hôm anh về đây là do hai đứa nớ dẫn đường đó.
- Thế thì yển tâm rồi, chiều nay cứ thử xem.
Khoảng 5 giờ chiều hôm đó, đàn trâu từ ngoài đồng lũ lượt về làng. Tôi cải trang cùng hai đồng chí du kích theo đàn trâu đi qua cổng đồn, thấy cổng mở, địch không chú ý. Lần thứ hai cũng vậy, người và trâu đi qua cổng, không thấy địch trong đồn động tĩnh gì. Hôm sau, tôi bàn với anh Vũ và anh Khánh chọn phương án: Lợi dụng sơ hở của địch, bộ đội huyện cải trang cùng du kích xã lùa trâu về chuồng. Đến cổng đồn, một tổ nhanh chóng giữ cửa ra vào, hai tổ nhanh chóng thọc sâu vào trong đồn, cùng du kích khống chế số lính nghĩa dũng, thu súng đạn. Một tổ cùng du kích vào bắt tổng Đông. Nghe tôi trình bày phương án diệt đồn, anh Vũ bổ sung:
- Phải tranh thủ thời cơ đánh ngay, không cần lực lượng đông, chỉ cần tinh binh, tinh cán.
Liền đó, chúng tôi liên hệ với Đại đội 1 bộ đội huyện, do anh Lương Hữu Sắt chỉ huy; anh Sắt điều ngay 20 cán bộ, chiến sĩ hành quân bằng thuyền suốt đêm về vị trí tập kết.
5 giờ chiều hôm đó, theo phương án đã đề ra, chúng tôi cải trang như nông dân lùa trâu từ đồng về, đi qua cổng đồn. Tình thế diễn ra như giả định, địch mất cảnh giác. Sau khi khống chế tên lính gác, tôi và anh Lương Hữu Sắt dẫn đầu hai tổ nhanh chóng ập vào đồn. Số lính nghĩa dũng đang chuẩn bị ăn chiều, không kịp trở tay, không dám chống cự. Chúng tôi bắt gọn, thu toàn bộ vũ khí. Riêng tổng Đông, khi đột nhập vào đồn, bắt đám lính, chúng thông báo tên này đi Đồng Hới chưa về. Sau khi truyên truyền, giải thích đường lối kháng chiến của ta và chính sách nhân đạo, chúng tôi thả đám nghĩa dũng về với gia đình.
Tối đó, anh Sắt cùng số chiến sĩ Đại đội 1 mang số vũ khí thu được về căn cứ. Còn tôi ở lại cùng anh Vũ, anh Khánh bàn cách giải quyết tổng Đông, nếu không có phương án xử lý, tên này về sẽ ra tay khủng bố người dân trong vùng để trả thù. Sáng hôm sau, tôi cùng một số anh em vào nhà thờ An Định, gặp cha Liêm quản xứ đạo vùng này. Gặp cha Liêm, tôi vào vấn đề ngay: “Chiều qua, theo lệnh của Ủy ban Kháng chiến, chúng tôi về tước vũ khí của địch đóng ở đây. Không hề gây thương vong cho lính nghĩa dũng. Nhiệm vụ của chúng tôi đã hoàn thành. Còn lại, việc quan trọng của cha là làm sao đừng để bọn Tây lấy cớ khủng bố phá phách, tàn sát bà con mình. Cha làm được là có công, bằng không là có tội với dân…”. Suy nghĩ một lúc, cha Liêm trả lời: “Tôi xin nhận. Việc ni có liên quan chi mà họ quấy phá dân…”.
Trên đường về, chúng tôi vừa tin, vừa lo, không biết tình hình diễn biến ra sao. Trưa hôm đó, một đoàn xe 5 chiếc chở toàn lính Tây từ căn cứ Hòa Luật về đồn An Định. Không biết cha Liêm đã nói gì mà khoảng 20 phút sau, cả đoàn xe quay về, tình hình yên ắng.
Tên tổng Đông được tin đồn An Định bị tập kích, mất hết súng ống, lập tức từ Đồng Hới về ngay. Nếu để cho tên này về, chắc chắn hắn sẽ gây thêm nhiều tội ác đối với nhân dân địa phương. Theo kế hoạch, sáng hôm sau, một tổ du kích bí mật mai phục, đợi tổng Đông đi xe kéo tay về đến đầu làng, thì xông ra xử lý nhanh gọn.
Trận tập kích đồn An Định và trừng trị tên tổng dũng ác ôn ở đây thắng lợi để lại cho chúng tôi kinh nghiệm cần bám sát tình hình thực tế, mới có cách đánh hiệu quả. Còn nhân dân trong vùng rất phấn khởi. Từ đó phong trào diệt tề trừ gian phát triển mạnh, làn rộng, làm cho kẻ địch hoang mang, sợ hãi.
Duy Hưngghi theo lời kể của bác Trần Sự