Phiên họp thứ 37 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Sẽ ban hành Nghị quyết về giám sát giảm nghèo bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng điều khiển phiên họp.
Chiều 10.9, dưới sự điều khiển của Phó Chủ tịch Thường trực QH Tòng Thị Phóng, UBTVQH tiến hành giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018”.
Ban hành nhiều văn bản tổ chức triển khai
Trình bày báo cáo kết quả giám sát, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Trưởng Đoàn giám sát của UBTVQH Hà Ngọc Chiến nêu rõ, trong giai đoạn 2012 - 2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 46 văn bản chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững (MTQGGNBV), trong đó có 1 nghị quyết của Chính phủ, 1 nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; 5 Nghị định của Chính phủ; 1 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; 36 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 2 Quyết định của Ban Chỉ đạo Trung ương. Các Bộ, ngành Trung ương đã ban hành các thông tư, văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện.
Các địa phương đã ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù, như: Chính sách hỗ trợ hộ nghèo thiếu hụt đa chiều; hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất cho hộ dân tộc thiểu số (DTTS) nghèo, hộ nghèo; chính sách tín dụng ưu đãi, vay vốn xuất khẩu lao động, phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế cho hộ nghèo đồng bào DTTS tại chỗ và DTTS ít người. Trong đó, báo cáo kết quả giám sát nhấn mạnh, riêng năm 2018, có 40 tỉnh đã ban hành trên 80 văn bản.
Đoàn giám sát của UBTVQH cũng nhận thấy, các cơ quan Trung ương và địa phương đã tăng cường kiểm tra, đánh giá, giám sát thực hiện Chương trình, phát hiện những vướng mắc trong việc tổ chức thực hiện, bất cập trong cơ chế quản lý, điều hành để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách. Đồng thời, phát hiện những yếu kém, sai phạm, ngăn chặn sự thất thoát kinh phí trong thực hiện chương trình này.
Về triển khai thực hiện, báo cáo kết quả giám sát chỉ rõ, kinh phí ngân sách Trung ương bố trí cho Chương trình MTQGGNBV giai đoạn 2012 – 2018 là 47.411.162 tỷ đồng, trong đó riêng hai chương trình 30a và chương trình 135 thuộc vùng DTTS, miền núi đã chiếm 43.086 tỷ đồng, chiếm 90,87% tổng kinh phí ngân sách Trung ương. Các chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo đã tạo ra sự chuyển biến rõ nét về cơ sở hạ tầng, khoảng 25.000 công trình hạ tầng đã được đầu tư, xây dựng trên địa bàn các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng DTTS, miền núi. Đến nay đa số các xã đã có đường ô tô đến trung tâm. Tỷ lệ hộ nghèo, nhất là hộ đồng bào DTTS giảm trung bình khoảng 3,5%/năm.
Kết quả giảm nghèo vùng DTTS chưa bền vững
Qua báo cáo của Chính phủ, các Bộ, ngành và qua thực tế giám sát tại địa phương, Đoàn giám sát đã khái quát một số tồn tại, hạn chế trong thực hiện Chương trình. Cụ thể, kết quả giảm nghèo vùng DTTS, MN chưa thực sự bền vững, một số kết quả chưa thực chất, chất lượng giảm nghèo chưa cao. Tỷ lệ hộ DTTS tái nghèo, phát sinh nghèo, hộ cận nghèo cao; thu nhập bình quân đầu người/năm của hộ nghèo DTTS thấp hơn thu nhập bình quân đầu người cả nước và có sự chênh lệch tương đối lớn giữa các nhóm DTTS; đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, sinh kế không ổn định; hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu còn thiếu, nhiều chỉ tiêu của các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng của Chương trình 30a, Chương trình 135 chưa hoàn thành, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội; một số mục tiêu lớn (giảm huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn) không đạt mục tiêu Chương trình. Một số vấn đề bức xúc của đồng bào DTTS, MN chi phối và ảnh hưởng đến giảm nghèo bền vững chậm được giải quyết, hiệu quả chưa cao như: giao đất, giao rừng cho hộ DTTS, hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho hộ đồng bào DTTS nghèo.
Đánh giá về nguyên nhân của những hạn chế trong triển khai Chương trình, Đoàn giám sát chỉ rõ có cả nguyên nhân khách quan (điều kiện tự nhiên không thuận lợi, diện tích đất canh tác ít, giao thông đi lại khó khăn, thời tiết diễn biến phức tạp, địa hình chia cắt; hậu quả biến đối khí hậu, hạn hán, thiên tai, bão lũ, lũ quét…) và nguyên nhân chủ quan, trong đó, có nhiều nguyên nhân từ quá trình tổ chức triển khai của bộ, ngành, địa phương. Một số văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành ban hành chậm và chậm sửa đổi, bổ sung đã ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành và tiến độ xây dựng, bố trí kinh phí để tổ chức thực hiện Chương trình trên địa bàn các tỉnh.
5 khó khăn nhất ở vùng DTTS
Các Ủy viên UBTVQH đánh giá cao chất lượng Báo cáo kết quả giám sát. Theo Trưởng Ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải, báo cáo đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh với nhiều số liệu minh họa cụ thể, làm rõ những việc đã làm được, cũng như hạn chế, tồn tại trong triển khai. Trong đó, báo cáo kết quả giám sát tập trung phân tích những nguyên nhân chủ quan liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước (dài 2,5 trang), trong khi nguyên nhân từ phía các hộ DTTS chỉ liệt kê trong 5 dòng. Địa chỉ trách nhiệm cũng được Đoàn giám sát chỉ ra rõ ràng, từ trách nhiệm Chính phủ, từng bộ, ngành, cũng như của địa phương.
Các Ủy viên UBTVQH cũng ghi nhận nỗ lực triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng DTTS của các cơ quan Trung ương và địa phương. Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng, những kết quả đạt được trong triển khai chương trình được Đoàn giám sát của UBTVQH chỉ ra là nỗ lực không thể phủ nhận. Trong đó, Chủ tịch QH nhấn mạnh đến việc nhiều công trình ở vùng đồng bào DTTS và MN đã được xây dựng và đến nay, đa số các xã có đường ô tô liên thôn, có đường đến trung tâm xã. 88% thôn đã có đường cho xe cơ giới, 42% thôn có đường giao thông đạt chuẩn, 99% trung tâm xã và 88% thôn có điện. Mặc dù có những hạn chế, tồn tại nhưng không thể phủ nhận nỗ lực của việc thực hiện chính sách pháp luật đối với đồng bào, Chủ tịch QH nhấn mạnh.
Ghi nhận các kết quả đã đạt được trong thời gian qua, song các Ủy viên UBTVQH cũng trăn trở trước 5 khó khăn nhất ở vùng DTTS gồm: điều kiện tự nhiên khó khăn nhất; chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất; kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất; tiếp cận dịch vụ phúc lợi cơ bản kém nhất và tỷ lệ hộ nghèo cao nhất. Có phải vì chính sách chưa đúng, chưa trúng hay chưa quyết tâm trong thực hiện khiến đồng bào phải gánh 5 khó khăn này? Bà Nguyễn Thanh Hải đặt câu hỏi.
Tổng Thư ký QH, Chủ nhiệm VPQH Nguyễn Hạnh Phúc quan tâm đến việc một số văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành ban hành chậm và chậm sửa đổi, bổ sung đã ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành và tiến độ xây dựng, bố trí kinh phí để triển khai tại các địa phương. Tổng Thư ký QH cho rằng, cần đánh giá tác động của việc chậm ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản tổ chức triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng DTTS.
Ngoài ra, các Ủy viên UBTVQH cũng quan tâm đến việc giảm nghèo chưa thực sự bền vững, một số kết quả chưa thực chất, chất lượng giảm nghèo chưa cao, tỷ lệ cận nghèo còn nhiều, tỷ lệ tái nghèo còn cao, thu nhập đầu người còn thấp và chênh lệch tương đối lớn giữa các nhóm dân tộc thiểu số với nhau. Trong đó, 10 DTTS ít người nhất đều có tỷ lệ hộ nghèo cao từ 45,7% đến 83,9. Từ thực tế này, một số ý kiến cho rằng, các chính sách được ban hành trong thời gian tới phải phân biệt rõ hơn, lựa chọn trong đồng bào dân tộc thiểu số những đồng bào nghèo nhiều phải được tập trung chính sách để thời gian tới, bà con vươn lên, không còn tỷ lệ nghèo cao như hiện nay.
Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng, qua giám sát lần này sẽ là cơ sở để Chính phủ xây dựng Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2025. “Đề án này chú ý đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào, làm sao để đồng bào DTTS và MN vượt qua phạm vi thôn bản của mình và tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống xã hội nhộn nhịp hiện nay”, Chủ tịch QH nhấn mạnh.
Kết thúc phiên họp, UBTVQH đã thống nhất sẽ ban hành Nghị quyết về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018.
Phương Thủy