Những phóng viên Quân đoàn 4

Tác giả đứng trước Dinh Độc Lập chiều 30-4-1975. Ảnh: Nguyễn Quyết

Trước khi viết những dòng này tôi xin kính cẩn, biết ơn và nhớ đến anh trai Vũ Hoài Ân và các đồng đội, đồng nghiệp, những chiến sĩ đã dâng hiến tuổi 20 cho Tổ quốc.

Sau chiến thắng giải phóng hoàn toàn Phước Long (6-1-1975), chúng tôi về lại căn cứ Bà Chiêm (Tây Ninh) bổ sung lực lượng, rút kinh nghiệm, huấn luyện chuẩn bị cho chiến dịch sau và ăn Tết Ất Mão tại đây. Khi ấy, tôi là phóng viên của Quân đoàn 4 (QĐ4). Ngày 6-3-1975, chúng tôi nhận được lệnh: “Để lại tất cả tư trang không cần thiết tại cứ, đến Sư đoàn 7 (Sư 7) với bộ đội!”...

Những ngày cuối tháng 3-1975, các đơn vị của QĐ4 tiến công, giải phóng đường 20 từ La Nga tới Blao (Bảo Lộc). Vừa giải phóng xong Di Linh, chuẩn bị tiến lên Đà Lạt thì QĐ4 được lệnh quay về tiến công Xuân Lộc.

Ngày 9-4-1975, Quân đoàn nổ súng tấn công tiểu khu Xuân Lộc. Cuộc chiến giằng co quyết liệt. Một số đại đội của Trung đoàn 141 (E141) và 165 (E165), quân số chiến đấu kể cả chỉ huy chỉ còn 7-8 tay súng (sau này tổng kết, QĐ4 thương vong gần 2.000 cán bộ, chiến sĩ). Đúng lúc ấy, tôi bị sốt rét nhưng vẫn cố bám theo đơn vị. Trưa 23-4, đang nằm nghỉ trên rẫy thì có tiếng gọi nghe quen quen. Tôi gượng ngồi dậy thấy một người lính lấm lem bùn đất, nở nụ cười. Thật bất ngờ khi nhận ra Ngô Tương Phùng - cậu bạn thân ngồi cùng bàn với tôi thời học cấp III, Trường Cao Bá Quát (Gia Lâm, Hà Nội), đang là lính trinh sát của Sư 7. Đã 6 năm rồi chúng tôi không có liên lạc gì, giờ gặp lại nhau thật thật ngỡ ngàng, Phùng lao vào ôm chặt lấy tôi. Chỉ gặp được chốc lát nhưng tôi thấy thật ấm lòng. Lúc chia tay, Phùng nói vội với tôi “Nhớ giữ gáo!” - nghe câu bạn dặn trong lúc xung quanh vẫn ngợp tiếng đạn réo khiến tôi chợt chạnh lòng rồi thoáng nghĩ: “nhắn mình vậy có điềm gì chăng?…”.

Cơn sốt rét lại ập về. Hai tai ù ù như cối xay lúa, do uống nhiều thuốc chống sốt rét. Tôi lấy mấy nhánh sâm của anh rể Nguyễn Lai cho để ăn cho đỡ mệt. Tôi gặp anh Lai trong rừng Lộc Ninh từ lúc mới vào B2. Khi dúi vào tay tôi 3 rễ sâm bé như đầu đũa, anh đã dặn kỹ cách dùng…

Ngày 28-4, chúng tôi được phổ biến: E165 có xe tăng hỗ trợ làm nhiệm vụ đột phá, chiếm giữ cầu qua sông Sài Gòn theo quốc lộ 1, qua Hố Nai - Biên Hoà; E141 là thê đội 2 sẽ tận dụng thời cơ vượt qua dùng sức mạnh xe tăng, cơ giới đánh địch, nhanh chóng tiến đánh chiếm mục tiêu chính: Dinh Độc Lập.

Khi đó phóng viên đi theo Sư 7 chỉ có tôi và Hữu Quỳnh, theo mũi thọc sâu E141. Cả hai đều từ báo Quân giải phóng điều về QĐ4. Sau chiến thắng Phước Long, hai phóng viên Đình Nghiệp và Xuân Trường được điều tiếp từ báo Quân giải phóng về QĐ4 và đi theo hướng Sư đoàn 9.

Trưa 29-4, nắng nóng hầm hập, trên đường, người, xe cộ đông nghẹt như trẩy hội. Tôi đi dọc hàng xe mà không lên được xe nào. Đang loay hoay thì gặp anh Dung - trợ lý tuyên huấn E165 giục lên xe. Thế là nhiệm vụ đi với E141 thọc sâu đã chuyển sang đi với E165 đánh mở cửa dọn đường…

Theo kế hoạch, Sư 341 và Sư 6 tăng cường phải chiếm Biên Hoà làm cơ sở cho Sư 7 vượt qua đánh vào Sài Gòn theo quốc lộ 1. Địch ngoan cố chống cự và đường chật hẹp xe tăng không phát huy được tính năng. Nhiều xe tăng của Quân đoàn bị bắn cháy tại cầu suối Săn Máu - cái tên tự nhiên lại trở thành hiện thực. Chiều tối 29-4, bộ binh E165 bị dồn ứ trước cầu Săn Máu này.

Khoảng 23 giờ ngày 29-4, xe tôi nằm lại trên lộ trước nhà thờ có 4 tháp nhọn đỏ. Trăng sáng nhìn rõ trong sân nhà thờ dân tụ quanh rất đông. Một loạt đạn nổ loang loáng phía trước. Anh em Ban Chính trị E165 vội nhảy xuống, tất cả núp dưới hầm xe. Sực nhớ ra khẩu K54 và bình tông nước của mình, tôi vội trèo lên xe lấy uống. Thấy vậy, cậu Cát - y tá bảo: “Anh Hưng cho em uống với” rồi kéo tôi vòng sang phía phải xe.

Nhưng khi vừa ngồi xuống, Cát chưa kịp uống nước thì thấy ánh chớp lóe lên rồi tất cả chìm vào vắng lặng. Theo phản xạ, hai anh em lăn mấy vòng rồi nằm bẹp dưới rãnh đường. Cổ họng tôi đắng khô, chiếc bi đông và mũ văng đâu không biết. Sau giây lát, bắt đầu có tiếng rên la của người bị thương. Anh Dẩu - Chủ nhiệm chính trị trung đoàn từ đâu chạy về, Cát mếu máo nói: “Anh ơi, anh Dung, Toàn, Liên… dính hết rồi. Ở đây chỉ còn em và anh Hưng phóng viên thôi”.

Bộ đội phát hiện quân địch trên gác nhà thờ và trên lầu các căn nhà dọc đường, lợi dụng độ cao ném cối, câu lựu đạn xuống. Xe tăng ta quay nòng pháo bắn thẳng lên nóc gác chuông. Xác lính ngụy tung ra ngoài. Quân ta tràn vào sân nhà thờ. Sau một hồi chiến đấu, bộ đội bắt được một loạt lính ngụy, có tên choàng vội áo chùng đen nhưng chưa kịp bỏ đồ lính.

Tôi cùng Cát làm công tác cứu thương, chúng tôi ngậm ngùi vĩnh biệt các anh thuộc Ban Chính trị E165. Nhiều anh đã chiến đấu từ năm 1968, nay trước ngày chiến thắng lại hy sinh.

Xong công việc, chúng tôi tạm lui ra ngã ba Tam Hiệp. Sáng sớm 30-4, tôi bám vào một xe của Đại đội 7, E141 tiến vào Sài Gòn theo hướng xa lộ. Trên đường đầy quân tư trang, vũ khí của địch vứt bỏ. Tới cầu Thị Nghè, chúng tôi thấy cả xe tăng của ta và địch cháy nghi ngút. QĐ4 theo đường Hồng Thập Tự vào tới Dinh Độc Lập khoảng hơn 12 giờ trưa, sau đơn vị bạn gần 1 giờ...

Vào tới sân Dinh Độc Lập, tôi tiếc nuối vì không được vào bên trong. Bên ngoài, khoảng ba bốn chục tù binh bị dồn vào bãi cỏ hai bên hông. Xe tăng đậu rải rác quanh Dinh.

Có chuyện buồn cười, là tôi hỏi một số lính xe tăng thì xe nào cũng nhận mình vào trước tiên. Khi hỏi vào trước như thế nào? Anh em chỉ cười. Vì thế khi viết bài “Lá cờ của Bác tung bay trên phủ đầu rồng”, đăng trên báo Quân giải phóng số đầu tiên khi vào Sài Gòn, tôi cũng nói sai số hiệu chiếc xe tăng vào Dinh Độc Lập đầu tiên.

Đến chiều, tôi gặp được Nguyễn Quyết - phóng viên ảnh của Sư 7. Anh ôm chầm lấy tôi reo lên: “Ôi! Ông còn sống…” và chụp ngay cho tôi tấm ảnh tại sân Dinh Độc Lập. Tấm ảnh đó được tôi giữ cẩn thận cho đến hôm nay.

CCB, nhà báo Vũ Hồng Hưng