Nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng La Ngà (1-3-1948 - 1-3-2018): Tháng ba gợi nhớ
Công tác tại Dưỡng đường, tôi có nhiều kỷ niệm sâu sắc.
Một lần anh Huỳnh Văn Nghệ - Chi đội trưởng Chi đội 10 đến thăm, chứng kiến cảnh một thương binh nằm trên bàn mổ đang gồng người hát vang “Đoàn quân Việt Nam đi…” để vượt lên đau đớn. Anh cảm kích mạnh, ngay đêm hôm đó viết xong bài thơ “Tiếng hát quốc ca”. Anh có tặng tôi một bản chép tay.
Cuối năm 1946, Bộ Tư lệnh Khu 7 di chuyển từ Chiến khu Đ sang Chiến khu Đông Thành (huyện Đức Huệ, tỉnh Long An hiện nay). Riêng ngành Quân y và ngành quân giới thì ở lại. Dưỡng đường quân sự của tôi được trên phân công Chi đội 10 quản lý và cấp trên lại trao cho tôi nhiệm vụ Chính trị viên Chi đội 10. Chi đội 10 Vệ quốc đoàn do anh Huỳnh Văn Nghệ đứng ra gom súng, luyện quân, thành lập tại Tân Uyên quê anh. Đến lúc này, mới hơn một năm xây dựng và chiến đấu, đơn vị đã có bước trưởng thành đáng khích lệ, được Bộ Tư lệnh Khu cũng như nhân dân tin tưởng…
Trong kháng chiến chống Pháp, Chi đội 10 liên tiếp lập công, mà đáng ghi nhớ nhất là trận giao thông chiến La Ngà ngày 1-3-1948. Đoàn xe chở quân Pháp và vợ con từ Sài Gòn lên Đà Lạt bị Chi đội chặn đánh tại đây, bắn hỏng 59 xe, diệt tại chỗ 25 sĩ quan cao cấp và 150 hạ sĩ quan, binh lính lê dương. Trước trận đánh, công tác tham mưu nắm quy luật hành quân của địch và bố trí đội hình phục kích, chọn vị trí trận địa hiểm yếu phải nói rất hay. Phối hợp nhịp nhàng với quân chủ lực, các đội du kích của ta liên tiếp quấy rối buộc đoàn xe địch cà rịch cà tang mãi đến 15 giờ mới lọt vào ổ phục kích đã bày binh bố trận sẵn… Sau này tôi được chuyển về lại ngành Y, nhưng vẫn nhớ mãi những ngày ở Chi đội 10. La Ngà là trận phục kích nổi tiếng của ta, diệt gọn đoàn xe chở quân Pháp và lê dương, tôi luôn nhớ mình từng là “Chiến sĩ La Ngà”.
Cho đến lúc này, trên chiến trường Nam Bộ, chiến thắng La Ngà là chiến thắng chưa từng có, làm chấn động dư luận trong nước và ngoài nước. Và những tù binh cũng như thường dân Pháp bị bắt, được ta đối xử nhân đạo và khoan hồng, sau khi được phóng thích một lần nữa lại gây chấn động trong hàng ngũ địch. Chỉ xin đơn cử một trường hợp, viên trung úy Geoffrey bị thương gãy giò, nếu đem cưa cụt thì cũng chẳng ai nói gì, nhưng dù thuốc men khan hiếm, chúng tôi đã dùng cả thuốc tây kết hợp với thuốc nam ràng rịt vết thương, kết hợp cách chữa trị của tây y với của dân gian, cứu được anh ta. Cô vợ trẻ của Geoffrey trước đây luôn mếu máo cầu xin “Au Dieu!” (Chúa ơi!) vì sợ chồng bị cụt giò, đến lúc này gặp ai trong chúng tôi đều “Grand merci!” (Cảm ơn lắm lắm!). Vợ chồng Geoffrey được ta trao trả, nhưng bị thực dân Pháp buộc xách va ly xuống tàu về nước vì cho là nhiễm “Tư tưởng Việt Minh!”.
Năm 1998, ngày 1-3 tôi về Định Quán dự lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng La Ngà. Tôi đã 78 tuổi rồi, gặp lại các đồng đội cũ, không còn nhiều, đầu tóc cũng bạc phơ như mình. Xúc động lắm. Các anh Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Văn Lung trong Ban chỉ huy Chi đội 10 ngày trước đã từ trần. Người còn lại duy nhất là tôi được chỉ định lên phát biểu ý kiến. Các đồng chí lãnh đạo tỉnh Đồng Nai yêu cầu tôi nói sao để đồng chí, đồng bào và nhất là thế hệ trẻ hôm nay thấy tự hào và trách nhiệm phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc, của quê hương trong sự nghiệp cách mạng hôm nay.
Trở lại mảnh đất chiến trường xưa, sáng tháng ba tươi nắng hôm đó mang lại cho tôi biết bao niềm vui, hạnh phúc, bao nỗi nhớ nhung của một thời trai trẻ…
Trương Nguyên Tuệ