Ngày 14-12, khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu toàn quốc Hội CCB Việt Nam lần thứ VI

Sau Diễn văn khai mạc của Thượng tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Được, đại biểu Quốc hội Khóa XIV, Trung tướng Nguyễn Văn Đạo-Phó chủ tịch T.Ư Hội trình bày Báo cáo chính trị của Ban chấp hành T.Ư Khóa V với chủ đề: “Phát huy bản chất truyền thống Bộ đội Cụ Hồ; Trung thành-Đoàn kết, Gương mẫu-Đổi mới; Xây dựng Hội CCB trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ” và Bản kiểm điểm công tác của BCH T.Ư Hội Khóa V.
Đại hội đón nhận phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; được Chủ tịch nước Trần Đại Quang trao tặng Huân chương Lao động hạng nhất và nghe ý kiến phát biểu của Đại tướng Ngô Xuân Lịch-Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy T.Ư, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; phát biểu của đồng chí Thiếu tướng Sổm-phone Keo-my-xay-Chủ tịch Hiệp hội CCB quốc gia Lào; phát biểu của Đại tướng Kun Kim, Tổng thư ký Hội CCB Campuchia.
Báo CCB Việt Nam xin trân trọng giới thiệu toàn văn Báo cáo chính trị của Đại hội:PHÁT HUY BẢN CHẤT, TRUYỀN THỐNG “BỘ ĐỘI CỤ HỒ”;

TRUNG THÀNH-ĐOÀN KẾT-GƯƠNG MẪU-ĐỔI MỚI; XÂY DỰNG HỘI TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH;

HOÀN THÀNH XUẤT SẮC MỌI NHIỆM VỤ.

Phần thứ NhấtĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ V (Nhiệm kỳ 2012-2017)

Năm năm qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp, song dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự cố gắng nỗ lực của toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị- xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.
Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ nhiệm kỳ V, Hội Cựu chiến binh luôn được nhận sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, trực tiếp là Ban Bí thư và các cấp ủy Đảng; sự phối hợp, giúp đỡ có hiệu quả của Chính phủ, Ủy ban nhân dân, các ban, bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về Cựu chiến binh từng bước được thể chế hóa đi vào cuộc sống, tạo niềm tin và khí thế mới trong toàn Hội.
Tuy còn gặp nhiều khó khăn như số lượng hội viên Cựu chiến binh phân bổ trên các địa bàn không đều, một số địa phương miền núi hội viên ít; biên chế, kinh phí, điều kiện bảo đảm cho hoạt động của một số cấp Hội còn hạn chế; đời sống vật chất, tinh thần của nhiều Cựu chiến binh còn không ít khó khăn…Song các cấp Hội và hội viên đã đoàn kết, năng động, sáng tạo, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ V (nhiệm kỳ 2017- 2022).
I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ

  1. Vận động Cựu chiến binh phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
    Xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu của Hội, các cấp Hội đã quán triệt, tổ chức, vận động hội viên giữ vững bản lĩnh chính trị, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, thực hiện và vận động Nhân dân thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Các cấp Hội đã phối hợp chặt chẽ với địa phương tham gia củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, xây dựng tổ chức Hội trong sạch vững mạnh; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội; chủ động ngăn chặn, đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản động; xử lý kiên quyết, kịp thời, khôn khéo, hiệu quả các tình huống phức tạp, làm thất bại mọi âm mưu, hành động "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
    Trước tình hình một số địa bàn xảy ra những vấn đề bức xúc, phức tạp nảy sinh từ cơ sở, nhiều tổ chức Hội, hội viên với bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín, đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của mình; có thái độ đúng đắn, gương mẫu thực hiện và vận động Nhân dân ủng hộ việc làm đúng; góp ý với chính quyền giải quyết những vấn đề chưa hợp lý, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, được địa phương và Nhân dân đánh giá cao.
    Sau sự cố môi trường biển tại miền Trung, Hội Cựu chiến binh các cấp đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội vận động Cựu chiến binh ở cơ sở tuyên truyền vận động, giải thích cho người dân hiểu chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cử cán bộ, hội viên Cựu chiến binh có uy tín trực tiếp gặp gỡ, tuyên truyền vận động, kêu gọi người dân không tham gia tuần hành, biểu tình, gây mất an ninh trật tự an toàn xã hội; đồng thời vạch trần âm mưu thủ đoạn của những kẻ cầm đầu, xúi giục, kích động, lôi kéo người dân lợi dụng tôn giáo, lợi dụng sự cố môi trường biển, lợi dụng tình hình Biển Đông và các vấn đề phức tạp khác để tạo “điểm nóng” về an ninh chính trị, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước. Đã có nhiều mô hình “Dân vận khéo” của Hội Cựu chiến binh các tỉnh miền Trung được triển khai thực hiện hiệu quả như phong trào: “Cựu chiến binh gương mẫu xây dựng xứ đạo bình yên”, “Cựu chiến binh với an ninh vùng giáo”, “Cựu chiến binh- giáo dân toàn tòng dân vận khéo”, “Xây dựng xứ, họ đạo bình yên”, “Lương- giáo đoàn kết”, “Xây dựng chính trị vùng giáo vững mạnh”..v.v..góp phần ổn định tình hình ở địa phương.
    Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng, các Nghị quyết của BCHTW; nhất là Nghị quyết Hội nghị TW 4 (khóa XI), Nghị quyết TW 4 (khóa XII) về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Cựu chiến binh trong giai đoạn cách mạng mới. Các cấp Hội và hội viên đã tích cực tham gia thực hiện nghị quyết của cấp ủy, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương, góp phần vào thành công của Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Phối hợp chặt chẽ với ngành chức năng góp phần tăng cường an ninh quốc phòng, đẩy mạnh phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc", chương trình “Phối hợp bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội”, tuyên truyền thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự; tham gia công tác giáo dục quốc phòng, dân quân tự vệ, dự bị động viên, diễn tập phòng thủ khu vực, tuần tra bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, vùng biển. Tham gia nhiều ý kiến trách nhiệm và tâm huyết với cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội; xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Nhiều cán bộ, hội viên đã dũng cảm đấu tranh với hiện tượng tham nhũng tiêu cực, được xã hội tôn vinh. Hàng chục vạn hội viên đã được đảng viên và nhân dân tín nhiệm bầu vào cấp uỷ, chính quyền, Hội đồng nhân dân các cấp; phát huy vai trò nòng cốt trong thực hiện các nhiệm vụ được giao.
    Các cấp Hội bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Hội và địa phương tổ chức triển khai có kết quả nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội; tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị. Hoạt động xây dựng và tham gia xây dựng pháp luật được triển khai tích cực, có hiệu quả đáp ứng kịp thời yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan chức năng; trong đó có hàng triệu lượt ý kiến tâm huyết của Cựu chiến binh cả nước đóng góp xây dựng Hiến pháp 2013 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác.
  2. Tổ chức, động viên Cựu chiến binh nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, phấn đấu giảm nghèo bền vững, làm giàu hợp pháp; tham gia tích cực và có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, đất nước
    Các cấp Hội tích cực vận động Cựu chiến binh phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dám nghĩ dám làm, có nhiều cách làm hay, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực và sự giúp đỡ của cấp uỷ, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương, tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với Cựu chiến binh để đẩy mạnh việc giúp nhau làm kinh tế, nâng cao đời sống, giảm nghèo nhanh và bền vững, vươn lên làm giàu hợp pháp, đóng góp chung cho sự phát triển của xã hội và đất nước.
    Phong trào Cựu chiến binh giúp nhau làm kinh tế phát triển cả về số lượng, quy mô và hiệu quả. Tuy có không ít khó khăn, thử thách nhưng các doanh nghiệp, hợp tác xã do Cựu chiến binh làm chủ vẫn đứng vững và tiếp tục phát triển, góp phần giải quyết việc làm cho hơn 703.000 Cựu chiến binh và con em Cựu chiến binh, gia đình chính sách. Trong nhiệm kỳ, đã có 155.750 hội viên CCB đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi các cấp (trong đó có 1.727 hội viên đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi cấp Trung ương Hội). Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 5 năm phong trào “Cựu Chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi” lần thứ IV giai đoạn 2011- 2016 đã có nhiều tập thể, cá nhân điển hình được biểu dương, khen thưởng.
    Trong quá trình giúp nhau giảm nghèo, các cấp Hội và hội viên đã có nhiều cách làm hay, hiệu quả giúp đỡ hộ Cựu chiến binh nghèo vươn lên. Có nhiều tổ hợp tác, tổ đổi công, vần công, quỹ "Nghĩa tình đồng đội", quỹ "Xoá nghèo cho hội viên".v.v.. được thành lập; góp phần tích cực vào thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển kinh tế- xã hội và công tác xoá đói, giảm nghèo trong cả nước.
    Các cấp Hội tập trung chỉ đạo quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay qua thực hiện ủy thác từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Tổng số tiền dư nợ uỷ thác qua Cựu chiến binh đến tháng 9/2017 đạt 26.299 tỷ đồng, tăng 9.700 tỷ đồng (so với đầu nhiệm kỳ), tỷ lệ nợ quá hạn là 0,5%, có hơn một triệu hộ còn dư nợ vay vốn. Ngoài ra, còn vay của các tổ chức tín dụng khác được 915 tỷ đồng; huy động vốn nội bộ trong Hội cho vay không lãi hoặc lãi suất thấp số tiền 435 tỷ đồng; vay vốn quỹ quốc gia giải quyết việc làm được 745 tỷ đồng. Các hộ nghèo khi vay vốn, được làm quen với hoạt động tín dụng, đã sử dụng có hiệu quả tiền đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
  3. Phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các ban ngành, đoàn thể; tham gia tích cực, có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào của đất nước, địa phương
    Việc thực hiện quy chế phối hợp giữa Hội Cựu chiến binh Việt Nam với Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan, bộ ngành được triển khai thiết thực, hiệu quả. Thực hiện tốt chương trình phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; phối hợp với Bộ Công an tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch số 01 về “Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự của đất nước trong tình hình hiện nay”; thực hiện Nghị quyết liên tịch “Về phối hợp hoạt động giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và Hội Cựu chiến binh Việt Nam giai đoạn 2012-2017”; phối hợp với Bộ Nội vụ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia chương trình xác định chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước; phối hợp với Ban Chỉ đạo Quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; phối hợp với Hiệp hội Doanh nhân Hội Cựu chiến binh Việt Nam tổ chức các chương trình "Tri ân đồng đội, vang mãi khúc quân hành", thực hiện công tác đền ơn, đáp nghĩa .v.v.. Hội Cựu chiến binh các cấp ký và tổ chức triển khai thực hiện chương trình phối hợp với Ủy ban nhân dân, các ban, ngành, đoàn thể cùng cấp, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước.
    Cuộc vận động “Cựu chiến binh Việt Nam tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông” và xây dựng văn hóa giao thông đã được các cấp Hội triển khai với nhiều nội dung, hình thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả. Hàng năm, Trung ương Hội đã phối hợp với Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia tổ chức Hội nghị tập huấn cho cán bộ chủ chốt các tỉnh, thành Hội, góp phần nâng cao nhận thức và kỹ năng tuyên truyền vận động cho cán bộ, hội viên. Hàng trăm tập thể, cán bộ, hội viên được các cấp Hội và chính quyền địa phương khen thưởng.
    Các cấp Hội bám sát các văn bản của Đảng, Chính phủ, hướng dẫn của các cơ quan thường trực quốc gia, cụ thể hóa vào tình hình cụ thể của Hội, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn các cấp Hội triển khai thực hiện. Toàn Hội có hàng nghìn mô hình hay, điển hình tốt trong thực hiện phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; phong trào phòng, chống tội phạm, ma túy và tệ nạn xã hội.
    Hưởng ứng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”… Hội Cựu chiến binh các tỉnh, huyện đã phối hợp với các hợp tác xã, doanh nghiệp do Cựu chiến binh làm chủ và với địa phương tổ chức nhiều cuộc triển lãm, hội chợ để quảng bá, trưng bày, giới thiệu sản phẩm, đưa hàng hoá đến vùng nông thôn, miền núi phục vụ người dân; tích cực tham gia phong trào bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm, góp phần thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia, xây dựng nông thôn mới. Phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể tổ chức 11.145 lớp tập huấn về công tác giảm nghèo, khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công, chuyển giao khoa học, kỹ thuật, bồi dưỡng kinh nghiệm, kiến thức làm kinh tế, nghiệp vụ vay vốn, quản lý và sử dụng vốn cho trên 600.000 Cựu chiến binh.
    Hưởng ứng các phong trào do địa phương phát động, Cựu chiến binh cả nước đã hiến gần 12 triệu m2 đất, đóng góp hơn 719 tỷ đồng và 3,52 triệu ngày công để làm mới, sửa chữa, nâng cấp 18.558 km đường giao thông nông thôn; tham gia sửa chữa, xây dựng 25.970 km kênh mương nội đồng, 3.621 cầu, cống và trồng hàng triệu cây xanh các loại; khoanh nuôi, bảo vệ hàng vạn ha rừng.
    Toàn Hội đã quyên góp, ủng hộ 281 tỷ 290 triệu đồng cho các loại quỹ hoạt động tình nghĩa (Quỹ phòng, chống thiên tai bão lụt; quỹ vì người nghèo, chất độc da cam-dioxin, khuyến học…); phối hợp Hiệp hội Doanh nhân Hội Cựu chiến binh Việt Nam tuyên truyền, vận động, sử dụng các quỹ từ thiện- xã hội có hiệu quả.
    Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tri ân đồng đội được phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các địa phương đạt hiệu quả thiết thực, góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần của hội viên, làm sâu sắc hơn nghĩa tình đồng đội, tăng thêm tình đoàn kết gắn bó giữa các hội viên và giữa hội viên với tổ chức Hội.
    Tuy chất lượng, hiệu quả thực hiện quy chế phối hợp còn có mặt hạn chế, nhưng đã tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan, ban ngành hiểu sâu hơn về về Cựu chiến binh và Hội Cựu chiến binh Việt Nam, tăng cường trách nhiệm trong phối hợp giải quyết các chế độ, chính sách đối với người có công và Cựu chiến binh được tốt hơn.
  4. Vận động quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” tham gia tổ chức Câu lạc bộ, Ban liên lạc Cựu quân nhân, tích cực tham gia các phong trào ở cơ sở
    Nhận rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và trách nhiệm đối với việc vận động, tập hợp Cựu quân nhân, các cấp Hội chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền nhất là ở cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo, động viên Cựu quân nhân tham gia Câu lạc bộ, Ban liên lạc Cựu quân nhân theo Kết luận số 66-KL/TW của Ban Bí thư. Các tỉnh, thành trong toàn quốc đã thành lập 36.752 Ban liên lạc, Câu lạc bộ Cựu quân nhân ở cơ sở, thu hút gần 1,2 triệu Cựu quân nhân tham gia (=69%, đạt chỉ tiêu Đại hội V đề ra).
    Tuy còn nhiều khó khăn, vướng mắc về mô hình tổ chức, nội dung, hình thức hoạt động, công tác bảo đảm, nhất là về kinh phí, nhưng nhìn chung các Câu lạc bộ, Ban liên lạc Cựu quân nhân đã hoạt động đúng hướng.
  5. Tham gia thực hiện tốt chế độ, chính sách; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên và Cựu chiến binh. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý cho hội viên và Cựu chiến binh
    Với các hình thức, nội dung phù hợp, hiệu quả, các cấp Hội đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện chế độ, chính sách; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Cựu chiến binh. Trung ương Hội đã phối hợp với các bộ, ngành nghiên cứu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 157/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 150/2006/NĐ-CP ngày 12/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Pháp lệnh Cựu chiến binh và kịp thời phổ biến, quán triệt Nghị định trong toàn Hội. Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung và ban hành mới một số chính sách về tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm y tế, tổ chức tang lễ đối với hội viên và Cựu chiến binh; Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ đến năm 2020 và những năm tiếp theo, các quyết định về chính sách đối với người tham gia kháng chiến… phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, hội viên và Cựu chiến binh.
    Chủ động tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các chế độ, chính sách đã ban hành đối với người có công; đồng thời phổ biến, triển khai thực hiện đến các tổ chức Hội, hội viên các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước mới ban hành đối với Cựu chiến binh, Cựu quân nhân. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tham gia giám sát việc thực hiện chính sách tại các địa phương, cơ quan, đơn vị; kịp thời phát hiện những vấn đề bất hợp lý, kiến nghị với cấp có thẩm quyền giải quyết và bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Kịp thời tư vấn, giải đáp những vướng mắc về pháp luật, chế độ, chính sách cho hội viên Cựu chiến binh.
    Trung ương Hội đã chỉ đạo, hướng dẫn các cấp Hội tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh Cựu chiến binh; tổ chức nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm có liên quan đến Cựu chiến binh và Hội Cựu chiến binh; bước đầu triển khai nghiên cứu lập đề nghị xây dựng Luật Cựu chiến binh. Công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho Cựu chiến binh được các cấp Hội triển khai thực hiện tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng, hỗ trợ Cựu chiến binh bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp.
    Hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý lưu động của Hội trong 5 năm qua thu được nhiều kết quả, giải quyết kịp thời những vướng mắc về pháp luật của hội viên và Cựu chiến binh, hạn chế tối đa khiếu nại kéo dài, khiếu kiện vượt cấp. Thông qua hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý lưu động, các cấp Hội đã lồng ghép có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho Cựu chiến binh, công tác hòa giải ở cơ sở, giúp Cựu chiến binh lựa chọn phương pháp ứng xử và giải quyết vụ việc đúng quy định của pháp luật.
  6. Tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ
    Thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”; Chỉ thị 42-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030, các cấp Hội đã phối hợp với Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tích cực tham gia giáo dục, bồi dưỡng truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; phát hiện, theo dõi, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú để giới thiệu cho Đảng xem xét, kết nạp; động viên đoàn viên, thanh niên lên đường nhập ngũ; động viên, giúp đỡ, tạo việc làm cho đoàn viên, thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương và thanh niên có hoàn cảnh khó khăn.
    Các cấp Hội đã phối hợp thực hiện phong trào“Bốn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”, góp phần tạo điều kiện cho thanh niên học tập, nghề nghiệp, việc làm, nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần, phát triển kỹ năng xã hội. Triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới”; vận động các doanh nhân, các Cựu chiến binh làm kinh tế giỏi chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ, tạo điều kiện cho đoàn viên, thanh niên lập thân, lập nghiệp sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho quân nhân xuất ngũ trở về địa phương.
  7. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước
    Hoạt động đối ngoại của Hội trong nhiệm kỳ được triển khai tích cực, đúng hướng và có hiệu quả, góp phần hiện thực hóa chủ trương, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, cùng phát triển của Đảng và Nhà nước; nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Công tác đấu tranh, tuyên truyền đối ngoại được chú trọng cả nội dung và hình thức, theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng. Trung ương Hội và các tỉnh, thành Hội đã tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 06/7/2011 của Ban Bí thư về công tác đối ngoại nhân dân.
    Hàng năm, đã chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai kế hoạch trao đổi đoàn đạt mục đích, yêu cầu; đúng chế độ, quy định và chính sách của Nhà nước; bảo đảm kịp thời, hiệu quả, an toàn. Các tỉnh, thành Hội phối hợp chặt chẽ với cơ quan Trung ương Hội triển khai đón tiếp chu đáo, trọng thị, chân tình các đoàn Cựu chiến binh nước ngoài đến thăm, làm việc tại địa phương.
    Quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác với Hiệp Hội Cựu chiến binh Quốc gia Lào và Hội Cựu chiến binh Cămpuchia ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; thường xuyên trao đổi thông tin về kinh nghiệm tổ chức, xây dựng lực lượng, hoạt động và phát triển Hội. Hội Cựu chiến binh các tỉnh, huyện tích cực tổ chức hoạt động giao lưu, hợp tác với các tỉnh, thành Hội của bạn; nhất là các tỉnh, huyện có chung đường biên giới.
    Duy trì trao đổi thông tin và giữ quan hệ chặt chẽ với tổ chức Cựu chiến binh các nước: Nga, Mỹ, Hàn Quốc, Marốc, Đức, Ba Lan, Bungari,…góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, tích cực tuyên truyền đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần thúc đẩy giải quyết hậu quả chiến tranh. Giữ mối quan hệ thường xuyên với các Câu lạc bộ, Ban liên lạc Cựu chiến binh Việt Nam ở nước ngoài để động viên Cựu chiến binh giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, đóng góp cho công tác vận động cộng đồng và phong trào Cựu chiến binh ở trong nước.
    Tham gia tích cực và có trách nhiệm với các tổ chức Cựu chiến binh quốc tế như: Liên đoàn Cựu chiến binh các nước ASEAN (VECONAC), Liên đoàn Cựu chiến binh thế giới (WVF), Ủy ban Thường trực Cựu chiến binh khu vực Châu Á- Thái Bình Dương (SCAP).
    Đã tổ chức thành công Hội nghị Ủy ban Quốc tế Làng Hữu nghị vào năm 2014 và 2016; Làng Hữu nghị đón 3161 khách quốc tế của 324 đoàn từ 67 quốc gia đến thăm, tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế trong khắc phục hậu quả chiến tranh.
    II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG HỘI
  8. Xây dựng Hội về chính trị, tư tưởng
    Các cấp Hội thường xuyên coi trọng, quan tâm công tác giáo dục, chính trị tư tưởng, góp phần tích cực vào việc định hướng tư tưởng cho cán bộ, hội viên và nhân dân. Tuyệt đại đa số Cựu chiến binh kiên định, vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; phấn khởi với thành tựu phát triển đất nước; đồng tình với quan điểm, giải pháp của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp trong quan hệ với các nước trên thế giới và khu vực.
    Các cấp Hội đã triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng, với thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng Hội. Nhiều hội viên đã trở thành những tấm gương sáng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...
    Thường trực Trung ương Hội phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức tốt các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho 776 lượt cán bộ chủ chốt của Hội Cựu chiến binh các tỉnh, thành phố, khối 487. Hàng năm Hội Cựu chiến binh các tỉnh, thành phố, quận, huyện phối hợp chặt chẽ với địa phương tổ chức các lớp bồi dưỡng chính trị cho cán bộ Hội; học tập chính trị cho hội viên. Báo Cựu chiến binh, Thông tin Cựu Chiến binh hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích; góp phần làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, định hướng tư tưởng; phản ánh kịp thời các hoạt động của Hội.
    Các cấp Hội tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền có ý nghĩa chính trị- xã hội sâu rộng, thiết thực chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước. Đã có nhiều bài viết giá trị của Cựu chiến binh trong cuộc thi viết “Ký ức Điện Biên”, “Xuân 1975- Bản hùng ca toàn thắng”, “sâu nặng ân tình”…
    Các cấp Hội đã tổ chức tốt Đại hội thi đua Cựu chiến binh gương mẫu và Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ V. Công tác thi đua khen thưởng từng bước được đổi mới, từ nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức đến xây dựng mô hình điểm, phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của đất nước, của Hội và địa phương. Việc đánh giá, tổng kết công tác thi đua, khen thưởng bảo đảm công khai, dân chủ, đúng thành tích.
    Hội đồng thi đua khen thưởng các cấp phát huy tốt vai trò tham mưu cho lãnh đạo Hội triển khai công tác thi đua- khen thưởng, gắn với phong trào thi đua “Cựu chiến binh gương mẫu”. Các cụm thi đua hoạt động có nề nếp, hiệu quả; các cấp Hội đã tổ chức ký kết giao ước thi đua với những nội dung, tiêu chí cụ thể, thiết thực, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao; đồng thời tạo điều kiện trao đổi, phổ biến, tham quan, học tập các mô hình, điển hình tiên tiến.
  9. Xây dựng Hội về tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ
    Đã tham mưu cho Ban Dân vận Trung ương chỉ đạo các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ trực thuộc Trung ương (nơi có tổ chức Hội) tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 08/01/2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Cựu chiến binh trong giai đoạn cách mạng mới”; tham mưu cho Chính phủ chỉ đạo tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 487/CT-TTg ngày 03/7/1997 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. Sau tổng kết, cấp uỷ, chính quyền các cấp đã tiếp tục quán triệt, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng, Nhà nước về công tác Cựu chiến binh và Hội Cựu chiến binh.
    Đã có nhiều chủ trương, giải pháp cơ bản, đồng bộ xây dựng hệ thống tổ chức Hội vững mạnh; gắn xây dựng Hội về tổ chức với xây dựng Hội về chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, hội viên. Hệ thống tổ chức Hội đã được kiện toàn từ Trung ương đến cơ sở; 100% xã, phường có tổ chức Hội, cơ bản các thôn, ấp, bản, tổ dân phố có chi hội, phân hội hoặc có Cựu chiến binh làm nòng cốt trong công tác vận động quần chúng. So với đầu nhiệm kỳ số tổ chức cơ sở Hội ở các loại hình đều tăng, riêng tổ chức Hội ở cơ quan các ban, bộ, ngành Trung ương tăng mạnh (từ 38 lên 47 tổ chức). Trung bình hàng năm toàn Hội phát triển được gần 80.000 hội viên mới; hiện nay, toàn Hội có 2.941.144 hội viên (kết nạp vượt chỉ tiêu 85% Đại hội V đề ra). Nhìn chung các hội viên mới được kết nạp đều đúng đối tượng, bảo đảm chất lượng theo quy định của Điều lệ Hội và phát huy tác dụng tốt.
    Cùng với việc xây dựng tổ chức Hội và phát triển hội viên, đã chú trọng đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt của Ban chấp hành các cấp; gắn xây dựng Ban chấp hành với xây dựng đội ngũ cán bộ Hội được xác định là khâu then chốt trong công tác xây dựng Hội. Hàng năm số tổ chức cơ sở Hội trong sạch vững mạnh đạt 95,76%; hội viên gương mẫu đạt 96,7%; gia đình hội viên đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá 96,7 % (vượt chỉ tiêu Đại hội V đề ra).
    Hội Cựu chiến binh các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp (khối 487) được củng cố, kiện toàn, phát triển; nội dung, phương pháp hoạt động phong phú, thiết thực hơn, khắc phục được những bất cập, lúng túng trong nhiệm kỳ trước, nhất là Hội Cựu chiến binh khối các cơ quan ban, ngành Trung ương.
    Ban Chấp hành Trung ương Hội có Nghị quyết chuyên đề về công tác quy hoạch cán bộ và xây dựng Ban chấp hành các cấp vững mạnh. Chủ động phối hợp với các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng uỷ trực thuộc Trung ương (nơi có tổ chức Hội) xây dựng đội ngũ cán bộ Hội các cấp, nhất là cán bộ chủ trì.
    Toàn Hội đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý, có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, trách nhiệm với công tác Hội, có tín nhiệm với cấp uỷ, chính quyền, với Cựu chiến binh, Cựu quân nhân và Nhân dân, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển của Hội trong tình hình mới. Trong nhiệm kỳ 100% cán bộ Hội được tập huấn, bồi dưỡng theo phân cấp (đạt chỉ tiêu Đại hội V đề ra). Thực hiện tốt công tác quy hoạch, tuyển dụng, bổ nhiệm, nghỉ việc đối với cán bộ chủ trì và chuyên viên ở các cấp Hội theo quy định của Trung ương Hội và của Ban Tổ chức Trung ương; quy trình giới thiệu bầu cử Ban chấp hành và bầu các chức danh chủ chốt (Chủ tịch, Phó chủ tịch) cơ bản được thực hiện đúng quy định, phát huy được dân chủ, công khai, đảm bảo chất lượng trong tuyển dụng, bầu cử, bổ nhiệm cán bộ. Đội ngũ cán bộ Hội có chất lượng, độ tuổi, cơ cấu phù hợp đặc thù của Hội Cựu chiến binh, cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
    Trung ương Hội đã phối hợp với các cơ quan có liên quan đề nghị Ban Bí thư ban hành Quy định số 282-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội cấp tỉnh, cấp huyện. Đề nghị Ban Tổ chức Trung ương ban hành văn bản số 602-CV/BTCTW quy định về độ tuổi và thời gian tham gia công tác đối với cán bộ Hội; Bộ Nội vụ ban hành văn bản tái khẳng định tiếp tục thực hiện Quyết định số 04/2004/BNV về tiêu chuẩn chức danh Chủ tịch Hội Cựu chiến binh cấp xã. Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để các cấp Hội đề xuất với cấp uỷ địa phương thực hiện về mô hình tổ chức và biên chế cơ quan Hội cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được thống nhất trong phạm vi toàn quốc, từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối về diện bố trí và thiếu cán bộ ở một số cơ quan Hội cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã như hiện nay.
  10. Công tác kiểm tra, giám sát
    Nhiệm kỳ qua, công tác kiểm tra, giám sát đã được các cấp Hội thực hiện nghiêm túc, hoạt động có nền nếp và hiệu quả tích cực, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ của Hội, xây dựng tổ chức Hội trong sạch vững mạnh.
    Thường vụ, Ban chấp hành Hội các cấp tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại tố cáo, xử lý kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệ Hội. Các cấp Hội đã kiểm tra, giám sát được trên 65.000 lượt tổ chức Hội, 417.000 lượt chi hội và trên 1,28 triệu lượt hội viên; đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng, đoàn thể của địa phương tiến hành trên 66.000 cuộc kiểm tra thực hiện nhiệm vụ do cấp uỷ, chính quyền địa phương giao; chủ động xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật chặt chẽ theo thẩm quyền đúng quy định của Điều lệ Hội. Số đơn thư khiếu nại, tố cáo và số tổ chức Hội, hội viên bị kỷ luật giảm nhiều so với nhiệm kỳ 2007-2012.
    Ban Kiểm tra các cấp Hội làm tốt công tác tham mưu cho Thường vụ, Ban chấp hành và trực tiếp thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại tố cáo, xử lý kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệ Hội. Tổ chức Hội các cấp đã tổ chức sơ kết công tác kiểm tra, giám sát giữa nhiệm kỳ đạt kết quả tốt. Thực hiện nền nếp, chế độ công tác kiểm tra, giám sát có nhiều tiến bộ. Đã tổ chức được 806 lớp bồi dưỡng, tập huấn cho trên 75.300 lượt cán bộ Hội và cán bộ làm công tác kiểm tra.
  11. Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
    Các cấp Hội đã coi việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội là nhiệm vụ quan trọng có tính đột phá trong công tác xây dựng Hội. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo Kết luận số 62-KL/TW ngày 8/12/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) “Về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội” và Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đạt kết quả tích cực. Nội dung, phương thức hoạt động được đổi mới, thể hiện rõ hơn vai trò, tính chất của một tổ chức chính trị- xã hội; có sự phân công trách nhiệm cụ thể, tạo sự đồng thuận và thống nhất cao trong hành động. Thường xuyên gắn công tác xây dựng Hội với việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, các phong trào của địa phương, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị.
    Trong chỉ đạo hoạt động đã hướng mạnh về cơ sở; lấy cơ sở, các chi Hội, phân Hội làm địa bàn hoạt động, nhất là miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Chú trọng tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết, tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát; tích cực đổi mới nội dung, hình thức nâng cao chất lượng sinh hoạt, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở Hội.
    Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của lãnh đạo, cơ quan Hội từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu; nói đi đôi với làm. Có nhiều đổi mới trong việc ra nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong các hoạt động của Hội theo hướng giảm bớt thủ tục, giấy tờ, hội họp.
    III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT
  12. Ưu điểm
    Được sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, trực tiếp là Ban Bí thư và các cấp ủy Đảng; sự phối hợp, giúp đỡ có hiệu quả của Chính phủ, Ủy ban nhân dân, các ban, bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Hội, cùng với sự nỗ lực, chủ động, sáng tạo, đoàn kết, trách nhiệm của toàn thể cán bộ, hội viên cả nước, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã có bước phát triển vững chắc; tổ chức Hội được củng cố, phát triển cả về số lượng và chất lượng; hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả; tuyệt đại đa số Cựu chiến binh giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ". Hội đã thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, bảo vệ Nhân dân và góp phần giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở; hoạt động tình nghĩa, giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống; tham gia phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tội phạm và các tệ nạn xã hội; giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đại diện cho ý chí, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của Cựu chiến binh; vận động, tập hợp, phát huy vai trò tích cực của Cựu quân nhân ở cơ sở; công tác đối ngoại nhân dân đạt kết quả tốt; nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội ngày càng được đổi mới.
    Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (nhiệm kỳ 2012- 2017); tiếp tục khẳng định là một tổ chức chính trị- xã hội uy tín; thành viên tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
  13. Hạn chế, khuyết điểm
    Công tác chính trị, tư tưởng đã có nhiều cố gắng, song có lúc, có nơi chưa nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của Cựu chiến binh; chưa chủ động, kịp thời giải quyết các vấn đề của thực tiễn đặt ra.
    Một số tỉnh, thành Hội chưa nhân rộng được nhiều điển hình trong phong trào Cựu chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi. Số hộ nghèo một số địa phương giảm chậm, hộ khá và giàu chưa nhiều; đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
    Nề nếp, chế độ sinh hoạt của một số tổ chức Hội chưa đúng quy định; chất lượng sinh hoạt, nội dung và hình thức hoạt động chưa thiết thực, chậm được đổi mới, chưa đa dạng cho phù hợp cơ quan, đơn vị, địa phương, địa bàn.
    Công tác phối hợp với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể; tập hợp Cựu quân nhân một số nơi chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao, hoạt động còn hình thức. Thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội có mặt còn hạn chế.
    Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm:
  • Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tổ chức nghiên cứu, học tập nghị quyết chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Điều lệ Hội cho cán bộ, hội viên có nơi chưa sâu sắc, kịp thời. Một số cán bộ, hội viên chưa nhận thức đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của Hội và trách nhiệm của bản thân; chưa tích cực tham gia các hoạt động của Hội và của địa phương.
  • Trong công tác chỉ đạo có lúc, có nơi còn thiếu quyết liệt; chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động; thiếu các giải pháp, biện pháp trọng tâm, trọng điểm, chưa có tính đột phá. Năng lực, trách nhiệm của cán bộ Hội một số nơi, nhất là cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chưa tạo được sự đồng thuận, ủng hộ cao của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với hoạt động của Hội.
  • Số lượng hội viên là Cựu chiến binh đã qua chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giảm, nhất là ở một số địa phương miền núi, các bộ, ngành Trung ương; việc tổ chức Hội và các hoạt động của Hội, tập hợp hội viên, Cựu quân nhân có nhiều khó khăn; có nơi không đủ điều kiện thành lập tổ chức cơ sở Hội.
  • Cơ chế, chính sách có mặt chưa đồng bộ; tổ chức, biên chế, cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động của các cấp Hội nhiều nơi còn khó khăn.
    IV. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
    Một là: Các cấp Hội phải luôn bám sát chủ trương của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; chức năng, nhiệm vụ chính trị của Hội; thường xuyên coi trọng công tác chính trị, tư tưởng, tập hợp, đoàn kết, động viên Cựu chiến binh tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”.
    Hai là: Các hoạt động của Hội phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của hội viên; luôn quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của Cựu chiến binh; tích cực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Cựu chiến binh; sâu sát cơ sở, gắn bó mật thiết với hội viên. Động viên Cựu chiến binh nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi, vươn lên làm giàu hợp pháp, nâng cao chất lượng cuộc sống; chủ động, tích cực trong vận động, khai thác các nguồn lực.
    Ba là: Phải thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đổi mới công tác thi đua, khen thưởng. Trong tổ chức thực hiện phải tạo được sự thống nhất về nhận thức; có chương trình, kế hoạch cụ thể; xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu, trọng tâm, trọng điểm, trách nhiệm tổ chức, cá nhân; lựa chọn đúng vấn đề ưu tiên, khâu đột phá; có quyết tâm cao, giải pháp linh hoạt, sáng tạo; huy động được sức mạnh nội lực của tổ chức Hội, hội viên. Chú trọng việc nhân rộng các tập thể, điển hình tiên tiến; các mô hình hay, hoạt động sáng tạo, hiệu quả. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong các hoạt động.
    Bốn là: Có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, tổ chức đoàn thể, nhân dân trong mọi hoạt động của Hội; được cấp uỷ, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể quan tâm, tạo điều kiện và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả.
    Năm là: Chú trọng xây dựng tổ chức Hội trong sạch vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội; nâng cao trình độ, năng lực cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng hoạt động của Hội; gắn quy hoạch với đào tạo bồi dưỡng sử dụng đội ngũ cán bộ Hội.

Phần thứ HaiMỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN NHIỆM KỲ 2017-2022.Trong những năm tới, tình hình thế giới sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt.
Trong nước, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao. Kinh tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nguy cơ "diễn biến hòa bình"; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự phối hợp, giúp đỡ có hiệu quả của Chính phủ, các bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương; kế thừa thành tựu gần 30 năm xây dựng và trưởng thành, nhiệm kỳ 2017- 2022 của Hội Cựu chiến binh Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, cũng có không ít khó khăn do số lượng hội viên Cựu chiến binh, nhất là Cựu chiến binh đã qua chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giảm; một số địa phương miền núi, cơ quan hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp không đủ điều kiện tổ chức thành lập Hội…
Tình hình thế giới, trong nước và của Hội đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới phức tạp hơn, đòi hỏi Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong nhiệm kỳ tới phải đổi mới mạnh mẽ, xác định rõ mục tiêu và chương trình hành động, tiếp tục thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Hội trong giai đoạn tới.
I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Tiếp tục phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”; trung thành- đoàn kết- gương mẫu- đổi mới; xây dựng tổ chức Hội trong sạch, vững mạnh; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống; tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm và các tệ nạn xã hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
II. CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

  1. Phấn đấu 100% hội viên kiên định, vững vàng về chính trị, tư tưởng.

  2. Phát triển trên 85% đối tượng đủ điều kiện kết nạp vào Hội.

  3. Phấn đấu 100% cán bộ Hội được tập huấn, bồi dưỡng theo phân cấp.

  4. Hàng năm trên 90% cơ sở Hội đạt trong sạch vững mạnh, trên 95% “Hội viên gương mẫu” và trên 95% gia đình Cựu chiến binh đạt “Gia đình văn hóa”

  5. Mỗi năm giảm từ 1,0-1,5% tỷ lệ hộ Cựu chiến binh nghèo (Riêng huyện nghèo, xã nghèo giảm 4,0% theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016- 2020). Phấn đấu xóa 70% nhà dột nát, tạm bợ cho gia đình hội viên và Cựu chiến binh; xóa 100% nhà dột nát, tạm bợ cho hội viên Cựu chiến binh là người có công.

  6. Phấn đấu 100% Cựu chiến binh trong độ tuổi lao động, còn sức khỏe được tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ, bồi dưỡng, hoặc đào tạo nghề để có cơ hội tìm việc làm.
    III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

  7. Tiếp tục vận động Cựu chiến binh đoàn kết, giữ vững và phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”; tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Hội
    Tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, thường xuyên tập hợp ý kiến của Cựu chiến binh, Nhân dân về những chủ trương phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng-an ninh, công tác xây dựng Đảng, những chính sách liên quan đến đời sống Nhân dân và Cựu chiến binh, nhạy bén phát hiện những vấn đề bất cập, hoặc mới phát sinh để kịp thời tham gia ý kiến với cấp ủy, chính quyền, khắc phục những bức xúc trong các tầng lớp Nhân dân làm ảnh hưởng tới an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
    Phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành và cơ quan chức năng đấu tranh phản bác kịp thời những quan điểm sai trái, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch; gắn với việc đẩy mạnh đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, hội viên; góp phần củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong toàn xã hội.
    Tích cực phát hiện, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với phương châm kết hợp giữa xây và chống, lấy xây là chính, phòng ngừa là cơ bản, theo đúng đường lối quan điểm của Đảng, đúng pháp luật, không để kẻ địch lợi dụng gây mất đoàn kết nội bộ, vu cáo, bôi nhọ, đả kích Đảng, Nhà nước; giữ vững niềm tin của Nhân dân, bảo vệ pháp luật, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội; tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị.
    Phối hợp với quân đội, công an tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức quốc phòng, an ninh trong Cựu chiến binh và Nhân dân. Tham gia diễn tập khu vực phòng thủ, tác chiến, huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên, phối hợp tuần tra bảo vệ biên giới, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo, kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở.
    Động viên tổ chức Hội và hội viên Cựu chiến binh ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp (khối 487) tích cực, chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước về hoạch định chính sách, cải cách hành chính; gương mẫu rèn luyện về phẩm chất, đạo đức, lối sống, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, tận tụy phục vụ Nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

  8. Động viên Cựu chiến binh nêu cao tinh thần tự lực, tự cường; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống; phấn đấu giảm nghèo bền vững, làm giàu hợp pháp. Tham gia tích cực và có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế của địa phương, đất nước
    Quán triệt, thực hiện các nghị quyết của Đảng; các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của Chính phủ, nhất là Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Các cấp Hội khai thác tối đa mọi nguồn lực và chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với Cựu chiến binh, gắn với chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, đầu tư phát triển các loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của Cựu chiến binh nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững, làm giàu hợp pháp, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và cả nước. Tổ chức điều tra, phân loại làm rõ nguyên nhân các hộ nghèo và cận nghèo của Cựu chiến binh, đặc biệt là hộ Cựu chiến binh nghèo ở xã nghèo, huyện nghèo, vùng dân tộc thiểu số; có biện pháp giúp đỡ cụ thể về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm, tư liệu sản xuất, dạy nghề để hộ Cựu chiến binh nghèo có điều kiện tự vươn lên thoát nghèo nhanh, chống tái nghèo. Các tổ chức Hội cần có chỉ tiêu, kế hoạch cụ thể giảm nghèo cho hội viên, góp phần thực hiện chỉ tiêu giảm nghèo chung của Chính phủ và của Hội đề ra.
    Chủ động, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, theo hướng sản xuất hàng hoá; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, ngành nghề và các mô hình gia trại, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp do Cựu chiến binh làm chủ để mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, tăng tỷ lệ hộ khá và giàu của Cựu chiến binh. Phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải đi đôi với đầu tư, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, ứng dụng khoa học- kỹ thuật, gắn với đào tạo nguồn nhân lực để làm ra sản phẩm có chất lượng cao, có thương hiệu, phát triển sản xuất thực phẩm an toàn, hướng mạnh vào phục vụ thị trường nội địa và có lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới.
    Coi trọng hợp tác kinh tế quốc tế; phát triển kinh tế đối ngoại tuỳ theo thế mạnh của Cựu chiến binh ở từng địa phương để liên doanh, liên kết, hợp tác du lịch, dịch vụ, hợp tác đầu tư. Thông qua hoạt động đối ngoại nhân dân của Cựu chiến binh tạo điều kiện giới thiệu, hỗ trợ các doanh nghiệp Cựu chiến binh phát triển thị trường, đối tác với Cựu chiến binh các nước.
    Thực hiện tốt quy chế phối hợp công tác giữa Hội Cựu chiến binh Việt Nam với Hiệp hội Doanh nhân Cựu chiến binh Việt Nam. Phối hợp tuyên truyền, vận động thành lập các Hội (hoặc Câu lạc bộ) Doanh nhân Cựu chiến binh ở các tỉnh, thành phố; mở rộng các hình thức hoạt động của Hội Doanh nhân Cựu chiến binh theo mục tiêu, điều lệ đã đề ra.
    Đẩy mạnh phong trào “Cựu chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi” gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của Hội. Đẩy mạnh phong trào thi đua Cựu chiến binh gương mẫu, phối hợp lồng ghép các chương trình, các cuộc vận động trong Cựu chiến binh một cách có hiệu quả. Định kỳ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình tốt; biểu dương, khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc để phong trào phát triển ngày càng sâu rộng, chất lượng hiệu quả ngày càng cao.

  9. Thực hiện tốt quy chế phối hợp với Chính phủ và các ban ngành, đoàn thể; tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào, các chương trình phát triển văn hóa- xã hội, quốc phòng- an ninh ở địa phương
    Tiếp tục thực hiện tốt quy chế phối hợp công tác giữa Trung ương Hội với Chính phủ, các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương; giữa Hội Cựu chiến binh các tỉnh, thành, huyện với các cấp, ngành, đoàn thể của địa phương. Đổi mới hơn nữa hình thức, phương pháp phối hợp hoạt động theo phương châm càng xuống cơ sở càng được cụ thể hoá, phù hợp với tình hình từng địa phương. Có kế hoạch cụ thể, cơ sở pháp lý triển khai thực hiện; định kỳ tổ chức rút kinh nghiệm; đảm bảo phối hợp có hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí. Phối hợp trong phát huy dân chủ, giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tích cực phối hợp trong cải cách hành chính; đánh giá sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với dịch vụ hành chính công. Phối hợp chặt chẽ trong triển khai các cuộc vận động, các phong trào do Trung ương, địa phương và các tổ chức, đoàn thể phát động nhằm xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ.
    Tổ chức thực hiện tốt phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016- 2020 theo Quyết định số 1730/QĐ-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Phát huy tinh thần gương mẫu của hội viên và các cấp Hội trong việc tuyên truyền và tham gia thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng, Nhà nước; góp phần thực hiện mục tiêu của từng địa phương và cả nước về đạt chuẩn nông thôn mới, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho Cựu chiến binh và người dân trên địa bàn nông thôn. Tham gia có hiệu quả các chương trình kinh tế- văn hóa- xã hội, an ninh- quốc phòng của địa phương và đất nước. Chỉ đạo Cựu chiến binh làm kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh biển đảo, cứu hộ cứu nạn, du lịch, trồng rừng phòng hộ ven biển và bảo vệ môi trường. Sản xuất, kinh doanh gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
    Phối hợp với các thành viên của Mặt trận Tổ quốc, tuyên truyền vận động hội viên và Nhân dân triển khai đồng bộ các nội dung cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; thực hiện Chương trình phối hợp 90 về “Vận động và giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm giai đoạn 2016- 2020”; các phong trào: “Dân vận khéo”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Cựu chiến binh Việt Nam tham gia giữ gìn trật tự, an toàn giao thông”; các chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm, HIV, tệ nạn xã hội; Cựu chiến binh với công tác bảo vệ môi trường…; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, tổ dân phố, khu dân cư, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào đời sống Cựu chiến binh và Nhân dân. Vận động Cựu chiến binh hoạt động trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật phát huy tiềm năng trí tuệ góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

  10. Vận động, động viên Cựu quân nhân tham gia các Câu lạc bộ, Ban liên lạc Cựu quân nhân, tích cực tham gia các phong trào ở cơ sở
    Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện Kết luận số 66- KL/TW của Ban Bí thư, tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của tổ chức Hội, hội viên đối với công tác vận động, tập hợp Cựu quân nhân ở cơ sở. Hội Cựu chiến binh các cấp phối hợp chặt chẽ với cơ quan quân sự địa phương, Đoàn Thanh niên và cơ quan chức năng cùng cấp làm tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền để tập hợp những quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ trở về địa phương tham gia sinh hoạt các Câu lạc bộ Cựu quân nhân ở cơ sở.
    Kịp thời kiến nghị với các cấp chính quyền có cơ chế hỗ trợ phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để các Câu lạc bộ Cựu quân nhân ở cơ sở hoạt động có hiệu quả; đa dạng hình thức tập hợp Cựu quân nhân ở các thôn, ấp, tổ dân phố… đồng thời nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, nhằm phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” và vai trò tích cực của Cựu quân nhân trong thực hiện các cuộc vận động, các phong trào của cơ sở. Phối hợp với các cấp, các ngành tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm để khắc phục tồn tại, thúc đẩy công tác vận động, tập hợp Cựu quân nhân vào sinh hoạt trong các Câu lạc bộ, Ban liên lạc.

  11. Chủ động tham gia thực hiện chế độ, chính sách; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên và Cựu chiến binh. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý cho hội viên và Cựu chiến binh
    Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ Hội và hội viên; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa với các đối tượng chính sách và hoạt động nghĩa tình trong nội bộ Hội. Phối hợp với các tổ chức chính trị- xã hội giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách, đồng thời tổ chức thực hiện tốt hơn các hoạt động tri ân đối với các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng, nhất là trong các ngày lễ, ngày tết, ngày truyền thống. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các quỹ do hội viên và các cá nhân, tổ chức đóng góp.
    Động viên hội viên và Cựu chiến binh tích cực tham gia thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về giải quyết chính sách tồn đọng sau chiến tranh, trọng tâm là tìm kiếm, quy tập, cất bốc hài cốt liệt sĩ; tư vấn, trợ giúp hội viên và Cựu chiến binh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của mình theo quy định của pháp luật; tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, gắn kết tình cảm đồng chí, đồng đội. Phối hợp với các đoàn thể, tổ chức xã hội vận động, giúp đỡ, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công bằng nhiều hình thức thích hợp, đa dạng và hiệu quả.
    Quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, nắm vững pháp luật; bám sát nhiệm vụ chính trị của Hội Cựu chiến binh Việt Nam, nghiên cứu để từng bước xây dựng dự án Luật Cựu chiến binh; tham gia xây dựng các dự án luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho Cựu chiến binh và công tác pháp chế trong nhiệm kỳ. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật liên quan đến Cựu chiến binh và Hội Cựu chiến binh.

  12. Tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ
    Hội Cựu chiến binh các cấp tiếp tục quán triệt Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Chỉ thị 42-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030. Thực hiện chương trình phối hợp “Tăng cường bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; tích cực tham gia phát hiện, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú giới thiệu xem xét, kết nạp vào Đảng. Triển khai có hiệu quả cuộc vận động “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới”; vận động các doanh nhân, Cựu chiến binh làm kinh tế giỏi chia sẻ kinh nghiệm, tạo cơ hội cho đoàn viên, thanh niên lập thân, khởi nghiệp.
    Động viên thanh niên làm nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc; thường xuyên quan tâm giúp đỡ, thăm hỏi, động viên gia đình để các chiến sỹ yên tâm thực hiện nghĩa vụ quân sự, nhất là các chiến sỹ đang làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

  13. Tích cực tham gia hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của của Đảng, Nhà nước
    Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, góp phần tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác giữa Nhân dân Việt Nam với Nhân dân các nước trên thế giới. Tuyên truyền, vận động Cựu chiến binh và Nhân dân thực hiện chủ trương đối ngoại của Đảng, chính sách ngoại giao của Nhà nước. Tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ, Cựu chiến binh và Nhân dân các nước trên thế giới trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phát huy vai trò của tổ chức, hội viên Cựu chiến binh ở nước ngoài đóng góp có hiệu quả vào các hoạt động đoàn kết, hữu nghị, thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
    Củng cố, tăng cường quan hệ chiều sâu với các nước láng giềng, đặc biệt là với Lào và Cămpuchia; triển khai thỏa thuận hợp tác với Hiệp Hội Cựu chiến binh Lào và Hội Cựu chiến binh Cămpuchia giai đoạn 2017-2022. Nâng cao chất lượng quan hệ với các nước trong khu vực, các nước đối tác chiến lược, bạn bè truyền thống; tham gia chủ động, tích cực, hiệu quả các tổ chức quốc tế mà Hội Cựu chiến binh Việt Nam là thành viên. Chuẩn bị mọi mặt để đăng cai Đại hội Liên đoàn Cựu chiến binh các nước ASEAN (VECONAC) vào năm 2020.
    Bám sát sự chỉ đạo của lãnh đạo, sự hỗ trợ của chính quyền địa phương; tranh thủ tận dụng các nguồn hỗ trợ khác để tăng cường hoạt động đối ngoại nhân dân các cấp. Tích cực vận động các đối tác, các tổ chức phi Chính phủ trong việc hỗ trợ giải quyết, khắc phục hậu quả chiến tranh, chất độc da cam/dioxin, trực tiếp là với Làng Hữu nghị Việt Nam.

  14. Tập trung xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở Hội. Trọng tâm là xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Hội.
    8.1. Xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng
    Động viên cán bộ, hội viên thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt; gương mẫu thực hiện và tích cực tuyên truyền, vận động Nhân dân chấp hành mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá " trong nội bộ. Coi trọng xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao kiến thức đáp ứng sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ mới. Kịp thời thông tin, tuyên truyền, định hướng tư tưởng cho hội viên và Nhân dân trước những vấn đề mới nảy sinh, những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, tạo sự thống nhất về tư tưởng.
    Tổ chức tốt các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn của đất nước giai đoạn 2017- 2022 và kỷ niệm 30 năm thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam (6/12/1989- 6/12/2019). Đẩy mạnh phong trào thi đua “Cựu chiến binh gương mẫu”; tích cực phát hiện, bồi dưỡng nhân rộng các điển hình tiên tiến, lồng ghép với phong trào thi đua chung của cả nước và các địa phương; tăng cường hoạt động của các cụm thi đua, phát huy tốt vai trò cụm trưởng. Tổ chức tốt Đại hội thi đua yêu nước Hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ VI vào năm 2019. Khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích đúng quy định. Nâng cao chất lượng cơ quan thông tin đại chúng các cấp Hội, phát huy tốt vai trò đội ngũ báo cáo viên, cộng tác viên dư luận xã hội.
    8.2. Xây dựng Hội về tổ chức, cán bộ
    Quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà nước về công tác Cựu chiến binh. Xây dựng hệ thống các cấp Hội đồng bộ, thống nhất về tổ chức, biên chế và diện bố trí cho từng cấp. Phấn đấu các xã, phường, thị trấn ở địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có tổ chức cơ sở Hội vững chắc (trong đó 70% có Ban chấp hành); thôn, bản có chi Hội hoặc phân Hội. Nghiên cứu thành lập tổ chức cơ sở Hội liên cơ quan, chi Hội liên thôn, liên bản nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Hội. Thường xuyên kiện toàn, nâng cao chất lượng sinh hoạt, hoạt động của Ban chấp hành các cấp, nhất là ở cơ sở. Tích cực phát triển hội viên mới; chú trọng vùng dân tộc thiểu số, miền núi và trong các tổ chức tôn giáo. Mở rộng đối tượng kết nạp hội viên nhưng phải bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng; kiên quyết đưa ra khỏi Hội những hội viên thoái hoá, biến chất, vi phạm kỷ luật.
    Cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ, nội dung sinh hoạt, hình thức hoạt động cho phù hợp với từng loại hình cơ sở, chi hội, phân hội theo hướng thiết thực, hiệu quả. Thực hiện thống nhất về tiêu chí phân loại đánh giá hàng năm đối với hội viên, tổ chức cơ sở Hội, cán bộ chủ chốt và Ban chấp hành các cấp theo quy định của Bộ Chính trị và hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương. Triển khai thực hiện việc thành lập tổ chức Hội ở các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần (kể cả công ty có vốn đầu tư của nước ngoài) theo Nghị định số 98/NĐ-CP của Chính phủ.
    Xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có chất lượng và cơ cấu hợp lý, đúng định hướng; đồng bộ với xây dựng Ban chấp hành các cấp vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác xây dựng Hội trong nhiệm kỳ và những năm tiếp theo.
    Chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội các cấp, đáp ứng yêu cầu công tác trong giai đoạn mới. Cán bộ Hội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ; năng động, sáng tạo, có khả năng tập hợp, vận động Cựu chiến binh, Cựu quân nhân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, phải có phẩm chất đạo đức tốt, có lối sống trong sạch, lành mạnh, trung thực, gương mẫu, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực xã hội khác. Có phương pháp, tác phong công tác tốt, tâm huyết với công tác Hội, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh trong công tác Hội và cuộc sống của hội viên, nhất là ở cơ sở.
    Xây dựng ban hành quy chế công tác cán bộ Hội, cụ thể hoá tiêu chuẩn chức danh cán bộ Hội ở từng cấp theo quy định của Ban Tổ chức Trung ương; bổ sung hoàn thiện quy trình giới thiệu bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, nghỉ công tác Hội cho phù hợp với quy định về công tác cán bộ của Đảng và của cấp uỷ cùng cấp. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ theo phân cấp. Triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định số 282-QĐ/TW của Ban Bí thư về tổ chức bộ máy, biên chế cơ quan Hội cấp tỉnh, cấp huyện.
    8.3. Công tác kiểm tra, giám sát
    Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của Ban chấp hành, Ban Thường vụ, Ban Kiểm tra tổ chức Hội các cấp trong thực hiện quy định của Điều lệ Hội về công tác kiểm tra, giám sát. Bám sát nhiệm vụ chính trị của Hội; của cấp uỷ, chính quyền địa phương để xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát của Ban chấp hành và Ban kiểm tra hàng năm; tổ chức triển khai thực hiện theo đúng quy định của Điều lệ Hội, góp phần xây dựng tổ chức Hội trong sạch vững mạnh, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Hội.
    Phấn đấu hàng năm tổ chức Hội cấp trên kiểm tra 25% tổ chức Hội cấp dưới, 25% chi Hội; giám sát 100% tổ chức Hội và hội viên theo phân cấp. Kiểm tra 100% tổ chức Hội, hội viên có dấu hiệu vi phạm. Tổ chức Hội các cấp tham gia, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của địa phương kiểm tra thực hiện các nhiệm vụ mà cấp uỷ, chính quyền địa phương giao.
    Ban chấp hành, Ban Thường vụ và Ban kiểm tra Hội các cấp có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, kịp thời việc giải quyết khiếu nại tố cáo và xem xét, xử lý kỷ luật Hội; đảm bảo đúng thẩm quyền và trình tự quy định của Điều lệ Hội; không để tồn đọng đơn thư khiếu nại, tố cáo kéo dài.
    Thường xuyên kiện toàn Ban Kiểm tra và xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra đủ số lượng, đảm bảo chất lượng; 100% tỉnh, thành Hội có cán bộ chuyên trách công tác kiểm tra; tăng cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
    8.4. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của Hội
    Tiếp tục thực hiện Kết luận số 62-KL/TW ngày 8/12/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) “Về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội” và Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Đổi mới phương thức lãnh đạo ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tạo điều kiện để các cấp Hội phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Trung ương Hội. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cấp Hội từ Trung ương tới cơ sở, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, bám sát cơ sở, nói đi đôi với làm.
    Nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành nghị quyết, văn bản của các cấp Hội, đảm bảo đúng pháp lý, thiết thực, ngắn gọn, khả thi; phân công rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân. Có các nghị quyết chuyên đề lãnh đạo, chỉ đạo những nội dung trọng tâm, trọng điểm. Đẩy mạnh cải cách hành chính, khắc phục những thủ tục rườm rà, bất hợp lý, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp. Cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức cơ sở Hội theo hướng thiết thực, hiệu quả.
    Chú trọng cải tiến tác phong, lề lối phong cách làm việc; coi trọng chất lượng hiệu quả. Phát huy dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, thực hiện theo quy chế, làm việc theo kế hoạch, giải quyết các mối quan hệ thông qua quy chế và nguyên tắc của Hội; đồng thời, tăng cường quan hệ chặt chẽ với các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị- xã hội.
    Trong nhiệm kỳ, các cấp Hội cần thực hiện toàn diện 8 nhiệm vụ, giải pháp cơ bản trên; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ đối với 02 nhiệm vụ trọng tâm là: Xây dựng Hội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Hội.
    Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Hội Cựu chiến binh Việt Nam diễn ra trong thời điểm lịch sử quan trọng với những thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen. Hội Cựu chiến binh Việt Nam với bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”; trung thành- đoàn kết- gương mẫu- đổi mới sẽ có bước phát triển mới, ngày càng mạnh mẽ, vững chắc hơn góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
    BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG HỘI KHÓA V