Ký ức người ra giải phóng Trường Sa!
Sau 40 năm, Ban liên lạc bộ đội Trường Sa tại TP. Nha Trang tổ chức gặp mặt những CCB từng tham ra giải phóng và chốt giữ trên các đảo, thuộc quần đảo Trường Sa những ngày đầu giải phóng. Nhân sự kiện này, chúng tôi đã gặp CCB Nguyễn Xuân Thùy, nghe ông kể lại những ngày tháng đầy gian khổ nhưng rất đỗi tự hào của mình và đồng đội trên quần đảo Trường Sa-vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc!
Sinh ra và lớn lên tại Giao Thủy, Nam Định, đầu năm 1974 Nguyễn Xuân Thùy nhập ngũ, được biên chế vào Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 38, Sư đoàn 2 (Quân khu 5), chiến đấu trên chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng.
Cuối tháng 3-1975, tình hình trên các chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ, có lợi cho ta. Đây là cơ hội để giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa cũng như các đảo khác do ngụy quyền chiếm đóng. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, Đoàn C75-đơn vị giải phóng Trường Sa được thành lập gồm: Đội 1 của Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126, và một số đơn vị bộ binh, đặc công, thông tin của Quân khu 5.
Đầu tháng 4-1975, ngay sau khi Đà Nẵng được giải phóng, đơn vị ông Thùy nhận lệnh ra cảng. Đêm 11-4, một số đơn vị thuộc Đoàn C75 được lệnh xuống 3 con tàu của Đoàn 125 nhận nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Để giữ bí mật, biên đội tàu cải dạng thành tàu đánh cá nước ngoài; toàn bộ cán bộ, chiến sĩ giấu quân trong các khoang tàu, hầm hàng. Sau hơn 2 ngày lênh đênh trên biển, chiều 13-4, các tàu của ta đến được đảo Song Tử Tây thuộc quần đảo Trường Sa. Rạng sáng 14-4, lực lượng đặc công nước và bộ binh được lệnh tiếp cận, tấn công lên đánh chiếm đảo. Mặc dù địch kháng cự quyết liệt, nhưng với quyết tâm và hiệp đồng chặt chẽ, chỉ sau 30 phút chiến đấu, đảo Song Tử Tây được giải phóng. Thông tin giải phóng đảo Song Tử Tây khiến anh em trong đơn vị hết sức phấn chấn, phía địch lại hoang mang tột độ. Vẫn với phương án đã hoạch định, ngày 21-4 các tàu của ta tiếp tục xuất kích mặc dù địch liên tục cho máy bay do thám, đơn vị của ông Thùy được lệnh tấn công giải phóng đảo Nam Yết. Đây là một đảo khá lớn, lực lượng địch phòng thủ đông nhưng khi quân ta đổ bộ, chúng hoảng sợ đầu hàng do vậy giải phóng đảo mà không mất một viên đạn nào. Tiếp đà chiến thắng, ngày 28-4 quân ta giải phóng đảo Sinh Tồn… và ngày 29-4-1975 giải phóng đảo Trường Sa.
Được lệnh ở lại chốt giữ đảo Nam Yết, nhiệm vụ đầu tiên của đơn vị ông Thùy là khẩn trương kiểm tra, củng cố trận địa, sẵn sàng chiến đấu nếu có lực lượng khác đến tái chiếm đảo. Đây cũng là quãng thời gian đầy gian khổ nhưng rất đỗi tự hào trong đời binh nghiệp của ông Thùy và các đồng đội. Hơn một năm gắn bó với Trường Sa, điều nhớ nhất của CCB Nguyễn Xuân Thùy là những ngày thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh và mong chờ thư gia đình. Hồi ấy, việc tiếp tế cho Trường Sa còn hết sức hạn chế, bộ đội trên đảo lúc nào cũng mong ngóng tàu ra đảo. Tàu ra đảo đồng nghĩa với việc có thêm nước ngọt, có lương thực, thực phẩm, rau xanh và đặc biệt là được nhận thư nhà… Nguyễn Xuân Thùy còn nhớ lần ông đã vừa khóc vừa nghe anh em đọc cho nghe thư chị gái. Hồi ấy, gần nửa năm trời trên đảo Nam Yết, gửi thư về gia đình nhiều lần, nhưng lại không nhận được trở ra! Đến khi chuyển sang đảo Sinh Tồn thì bất ngờ nhận được điện của anh em từ đảo Nam Yết thông báo mình có thư. Không thể chờ đợi lâu hơn, ông đã nhờ anh em trên đảo Nam Yết đọc thư qua máy thông tin và mở to loa để các anh em trong đơn vị cùng nghe… “Lúc đó tôi đã khóc rất nhiều, anh em quanh tôi cũng khóc theo. Sau này mới biết những lá thư mình gửi về gia đình đều thất lạc, nên gia đình ai cũng nghĩ là đã hi sinh! Thật may lá thư viết về thăm chị gái lại nhận được nên gia đình mới biết tin còn sống và đang chốt giữ trên quần đảo Trường Sa”-ông Thùy chia sẻ.
Tết năm 1976, năm đầu tiên đón Tết trên đảo, có tàu vận chuyển hàng Tết ra, nhưng đợi mãi không thấy. Ông và đồng đội phải dùng bao xác rắn để gói bánh chưng, giờ phút giao thừa ai cũng khóc vì nhớ nhà, nhớ gia đình… rồi chỉ biết mang xoong nồi ra gõ...
Tháng 6-1976, ông được về thăm gia đình và được cử đi đào tạo tại Học viện Hải quân, rồi Học viện Chính trị Quân sự; sau đó trở lại làm giảng viên của Học viện Hải quân tại Nha Trang. Năm 1988, sức khỏe của ông giảm sút do ảnh hưởng chất độc da cam nên ông được về mất sức.
Trở về đời thường, không chịu đầu hàng đói nghèo. Ông xác định “Thương trường như chiến trường”, dù sức khỏe giảm sút nhưng ông vẫn quyết tâm làm kinh tế và trở thành doanh nhân thành đạt. Đến nay, Công ty CP TMDV du lịch Quốc tế do ông gây dựng với nhà hàng, khách sạn và gần 200 đầu xe taxi, tạo công ăn việc làm cho khoảng 700 lao động…
Không chỉ làm kinh tế giỏi, ông còn thường xuyên tham gia đóng góp cho các chương trình nghĩa tình đồng đội, giúp đỡ các CCB có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là các CCB và Ban liên lạc bộ đội Trường Sa tỉnh Khánh Hòa.
Bài và ảnh: Công Thi