Kỷ niệm 78 năm Ngày Quốc khánh 2-9 (1945-2023): Nghĩ về người lập quốc
Quốc khánh của nước ta đã bước sang năm thứ 78!
Để kết thúc trăm năm “Ngày Ta nằm dưới ngày Tây” trên lịch An Nam thời Pháp thuộc (tính từ ngày 2-9-1945), hãy nhớ về năm 1890! - năm một vĩ nhân tương lai “Trăm năm may ra mới xuất hiện một lần”, chào đời, sau này là Người - Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cùng năm (tháng 3), Toàn quyền Đông Dương ra lệnh thành lập tỉnh Thái Bình, gồm phủ Thái Bình cũ, phủ Kiến Xương (tách từ Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ Hưng Yên); cùng tháng (tháng 5), người Pháp cho đặt đoạn đường sắt đầu tiên ở Bắc Kỳ, đoạn Phủ Lạng Thương (Bắc Giang nay) - Lạng Sơn; 6 năm sau, Toàn quyền Đông Dương ra lệnh lập Trường Quốc học Huế và 9 năm sau, người Pháp làm cầu Đuy-me (Long Biên) và thành lập Trường Viễn đông Bác cổ...
Trước đó (1889), Toàn quyền Đông Dương đã ra lệnh thành lập T.P Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam. Đà Nẵng được xếp là thành phố cấp II, ngang với Chợ Lớn và Phnôm Pênh; Năm 1888, người Pháp khánh thành đường dây điện báo Sài Gòn - Hà Nội (qua Quy Nhơn, Đà Nẵng, Huế, Vinh) và thành lập Công ty Mỏ than Bắc Kỳ, có trụ sở đặt ở Paris; Tổng thống Pháp ra lệnh thành lập T.P Hà Nội (thành phố cấp I, ngang với Sài Gòn), đồng thời cũng nâng Hải Phòng lên thành thành phố cấp I; Vua Đồng Khánh ra đạo dụ, nhượng hẳn “quyền sở hữu hoàn toàn” Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng cho Pháp!
Trước đó nữa (1887), Tổng thống Pháp đã ký sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, lúc đầu chỉ gồm Cao Miên và Việt Nam (đã bị chia làm 3 kỳ - Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và đến năm 1899, sáp nhập thêm cả Lào.
Nói rộng ra một chút như thế để thấy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chào đời, người Pháp đã là “ông chủ”, đã “tự làm mọi việc” trên toàn xứ Đông Dương nói chung và trên đất nước ta nói riêng; từ hành chính, giao thông, bưu chính... đến khai mỏ, mở trường, lập viện...; dân Việt hoàn toàn mất nước. Triều đình Huế bất lực và chỉ còn là bù nhìn! Nhưng về hành chính, có một việc ta nên “ghi công” cho người Pháp, đó là việc người Pháp đã “vượt qua” Minh Mệnh, “cho” tỉnh Hà Nội thành ra T.P Hà Nội - thành phố cấp I thuộc Pháp!...
21 tuổi (1911), Người ra đi tìm đường cứu nước; 40 tuổi (1930), Người thành lập chính Đảng của mình; 55 tuổi (1945), Người cùng Đảng của mình và toàn dân giành chính quyền, phục quốc và Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiếp nối hào quang bao đời Thăng Long Đại Việt. Ngày 2-9 năm ấy, Người công bố “Tuyên ngôn Độc lập”, bằng văn bản chính thức, trước quốc dân đồng bào và thế giới, sau hai bản “Tuyên ngôn Độc lập” huyền thoại - một tương truyền của Lý Thường Kiệt và một của Nguyễn Trãi, mở ra kỷ nguyên vàng son thứ tư cho Thăng Long - Hà Nội. Thật đúng là: “Ý dân bao nhiêu năm/ Thành ý trời vằng vặc/ Ý trời thốt ra lời/ Thành “Tuyên ngôn độc lập”/ Bác đọc trên đài cao/ Ngàn lời thiêng bay khắp/ Lời nhuần gội lòng người/ Như mưa đền dạ đất/ Giữa nắng thu gió thu/ Cờ Cộng hòa phần phật/ Muôn dân ngước lên nhìn/ Hả hê trong nước mắt/ Tám mươi năm vong nô/ Giờ thành dân độc lập/ Lòng ai không mở cờ/ Tái sinh cùng trời đất...”.
Hà Nội cũng là nơi đón nhận bản Hiến pháp đầu tiên của nền Cộng hòa (1946). Năm ấy, Hà Nội cũng là nơi phát đi lời hiệu triệu “Toàn quốc kháng chiến”, để lại “Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng” và 9 năm sau, Hà Nội đón bộ đội Cụ Hồ về tiếp quản - “Trùng trùng quân đi như sóng/ Lớp lớp đoàn quân tiến về; Năm cửa ô xòe năm móng rồng/ Đoàn quân về nhấp nhô như sóng...”.
Năm 1954, Người cùng Đảng của mình và cả dân tộc làm nên Điện Biên Phủ, ngòi nổ cho chuỗi nổ dây chuyền phá tan “chủ nghĩa thực dân kiểu cũ”, xây dựng miền Bắc thành “Hậu phương lớn” (yếu tố thường xuyên quyết định thắng lợi ở tiền tuyến - Staline) trong cuộc “Kháng chiến thần thánh” lần thứ 2 - chống Mỹ cứu nước; biến cả Trường Sơn thành một chiến trường với “Đường Hồ Chí Minh” huyền thoại...
Đến trước khi Người mất (2-9-1969), thì phiên họp đầu tiên, chính thức giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Hoa Kỳ đã diễn ra ở Paris (13-5-1968), làm tiền đề cho “Hội nghị bốn bên về Việt Nam” lịch sử, cũng ở Paris, sau khi “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam thất bại (ngày 25-1-1969, phiên họp toàn thể chính thức đầu tiên của Hội nghị ấy, khai mạc tại Phòng họp Trung tâm của Hội nghị Quốc tế). Mỹ đã phải chấp nhận đàm phán với Mặt trận DTGP MNVN - Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và “dắt” Cộng hòa miền Nam Việt Nam đến họp cùng. Mỹ cũng đã phải nghĩ đến “Việt Nam hóa chiến tranh”. Sau khi Người mất, các đồng chí và đồng bào của Người còn làm thêm được một Điện Biên Phủ nữa - “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” (12-1972).
Và rồi, như chúng ta đã biết, chiến lược lớn cuối cùng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam - “Việt Nam hóa chiến tranh”, hay là “Thay đổi màu da các xác chết”, hay là “Hỏa lực Mỹ, lính Việt Nam Cộng hòa”- hoàn toàn sụp đổ vào cuối mùa xuân 1975. Từ đó, Việt Nam hoàn toàn thống nhất, cuộc Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo cùng với Đảng của mình, đã hoàn toàn thắng lợi. Thế là, cả cuộc đời Người, như Người từng nói, Người chỉ mong mỏi và dốc sức làm “có một việc”, đó là làm cho “Nước ta được độc lập, dân ta được tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Và, Người đã làm như thế.
Nhìn lại bối cảnh lịch sử khi Người được sinh ra và nhìn “cơ đồ” Người để lại, không cần phải sâu sắc lắm, cũng thấy ngay rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một vị Anh hùng dân tộc, một vĩ nhân trong các vĩ nhân. Người đã thuộc về “Thế giới người hiền”, không chỉ của dân ta mà còn là của nhân loại.
Nhìn sơ lược lịch sử ta, dễ thấy rằng, khi nào chúng ta có “Vua sáng, tôi hiền”; khi nào chúng ta giữ được đạo đức và phẩm cách; cân bằng, thông minh và mạnh mẽ cả trong chính trị - kinh tế - văn hóa và võ bị; thì ta có “Đại đoàn kết toàn dân”, thì ta không bị ngoại bang “bắt nạt” và những kỷ nguyên vàng son ắt về trên núi sông. Chúng ta ngày nay cũng nhất định phải thế! Nếu không, không thể nói là chúng ta trung thành với lý tưởng của Người.
Đỗ Trung Lai