Đêm 26-1-1973, Tiểu đoàn 5 đang hình thành thế bao vây, chiếm lĩnh sở chỉ huy Tiểu đoàn dù ngụy tại ngã ba Phước Môn (Quảng Trị) thì Trung úy Trần Minh Hùng-Tiểu đoàn trưởng (sau này có thời kỳ là Thiếu tướng-nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5) nhận được lệnh của Trung đoàn chuyển hướng tiến quân về làng Tích Tường để kịp cắm cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào 5 giờ sáng ngày 27-1. Nhận lệnh, lúc gần 3 giờ sáng, về Tích Tường phải hai lần vượt sông và trên 5km đường núi rừng rất khó khăn. Rất may, tổ du kích của xã Triệu Thượng có mặt kịp thời dẫn tiểu đoàn luồn lách qua địa hình có địch. Đúng 4 giờ 30 phút, tiểu đoàn bí mật bao vây làng Tích Tường. Du kích đã chuẩn bị cờ Giải phóng và các phương tiện địch vận. 5 giờ, quân ta đồng loạt tiến công, đánh thiệt hại nặng đại đội thuộc Lữ đoàn 3 dù ngụy, làm chủ trận địa.
Sau khi Hiệp định được ký kết, lệnh ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc giải phóng có hiệu lực, Tiểu đoàn trưởng Hùng cùng một trung úy chỉ huy đại đội ngụy đi kiểm tra những nơi quân ta và lính ngụy đóng quân xen kẽ, thống nhất giữ nguyên hiện trạng, không bên nào vi phạm những điều đã thỏa thuận trong lệnh ngừng bắn. Thấy một trung đội thám báo nằm lọt về sau đội hình của ta, đồng chí Hùng hỏi và được Trung úy dù cho biết đó là trung đội thám báo được cấp trên tăng cường cho mặt trận, không thuộc quyền của y. Đồng chí Hùng và Chính trị viên tiểu đoàn liền tiến hành công tác tuyên truyền, thuyết phục, kêu gọi sĩ quan, binh sĩ ngụy không nên tiếp tục dấn thân vào cuộc chiến phi nghĩa, để trở về đoàn tụ với gia đình, chính quyền cách mạng sẽ cho họ hưởng chính sách khoan hồng.
Tên trung đội trưởng tỏ ý lo ngại nếu theo cách mạng sẽ gặp phức tạp với gia đình, vợ con tại quê nhà. Biết y quê Đà Nẵng, đồng chí Hùng nói: Tôi cũng quê Đà Nẵng, nếu anh cho biết địa chỉ của gia đình, chúng tôi sẽ có trách nhiệm bảo vệ an toàn, kể cả gia đình binh sĩ trong trung đội. Tên trung đội trưởng thám báo vẫn lưỡng lự không dứt khoát. Thời gian nơi chiến trường không cho phép kéo dài, sau khi kiên trì thuyết phục không đạt kết quả, tiểu đoàn đã thực hiện lệnh cấp trên bắt làm tù binh 23 binh sĩ trung đội thám báo.
Cũng trong ngày 27-1, quân ta dựng một nhà bạt làm “Nhà hòa hợp”, trang trí ảnh Bác Hồ, cờ Giải phóng, khẩu hiệu, trên bàn có thuốc lá, lương khô, nước uống. Tại đây, đồng chí Nguyễn Đức Hiền-Phó chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn 95 (sau là Đại tá-Phó sư đoàn trưởng chính trị Sư đoàn 2), người được cử xuống nắm tình hình kết hợp làm công tác hòa giải đã gặp viên đại úy chỉ huy tiểu đoàn dù, tiến hành công tác hòa giải, hòa hợp. Hai bên đề cập đến việc chấp hành nghiêm lệnh ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhận thấy thái độ viên đại úy còn lấn cấn (nại rằng cấp trên vẫn có lệnh đánh chiếm các vùng đất đã mất), sau khi xin ý kiến cấp trên, phía ta liền đề xuất biện pháp gỡ khó cho viên đại úy là tổ chức trận đánh giả-hai bên cùng nổ súng nhưng bắn lên trời để không gây thương tích. Viên đại úy chấp thuận, nhưng đánh nhau mà không có thương vong là điều vô lý nên đã đưa ra “sáng kiến” “tự sát thương”: cuốn vải vào đầu nòng súng khi bắn để ngăn cản khói và mùi thuốc súng tác động vào vết thương, như vậy nếu cấp trên của y có kiểm tra sẽ không phát hiện được.
Tiến hành công tác hòa giải, quân ta chọn những đồng chí nói giọng miền Nam, trong đó có đồng chí Hiền quê Quảng Nam, đồng chí Nghị quê Đồng Tháp… tiếp xúc với các binh sĩ địch. Đồng chí Hiền phát hiện ra “đồng hương”, đã khuyên họ tỉnh táo, nắm lấy thời cơ để ra vùng giải phóng về với cách mạng và gia đình. Ban đầu, lính ngụy sợ nếu chạy về phía cách mạng thì gia đình, vợ con sẽ bị liên lụy, nhưng qua phân tích, 8 người đã đồng ý. Để giúp họ trở thành hàng binh, quân ta cho trinh sát tháo gỡ mìn, chống hàng rào cao lên và hẹn khi có đèn tín hiệu thì vượt qua, có người đón. Trong số 8 người lính thì có 5 người vượt sang vùng giải phóng, còn 3 người sợ nên quay lại.
Điều thú vị là sau ngày giải phóng miền Nam, đồng chí Hiền về thăm lại quê hương thì được biết, trong số 5 hàng binh mà anh vận động ra vùng giải phóng có Đỗ Văn Yên cùng quê Điện Tiến.
Bài và ảnh: Nguyễn Nhân Mùi