"Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” qua những vần thơ
"Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm".
(Việt Nam máu và hoa - Tố Hữu).
Những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu đã khái quát khí phách, phẩm giá của con người Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục kẻ thù xâm lược dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào.
Việt Nam máu và hoa. Hoa của chiến công. Kết vòng hoa chiến công ấy là những cô gái rất bình dị:
"Những cánh bay nhung nhúc trong đêm
Chúng làm những cô gái cũng chậm lại nhịp thở đưa ngón tay vào cò súng...
(Đất sóng - Vũ Đức Tân).
Là lực lượng không quân lớn nhất thế giới, nhưng không lực Hoa Kỳ lại thất bại trước thế trận phòng không nhân dân của quân và dân ta. Với ý chí và "Những cánh bay mặt đất", Không quân của ta đã lao lên bầu trời vít cổ kẻ thù:
"Đêm B.52 khốc liệt
Những cánh bay mặt đất
Phóng lên trời
Anh cháy sáng
Anh nổ tung thiên thạch
Anh hóa thành vệt chớp
Ánh sao rơi...".
(Mở bàn tay gặp núi - Nguyễn Đức Mậu).
Lòng dũng cảm, trí thông minh, sáng tạo của con người Việt Nam biểu hiện qua kỹ thuật thao tác chiến đấu điêu luyện, mưu trí của quân và dân ta, được thể hiện qua hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp đối đầu với kẻ thù qua màn hiện sóng ra đa của lực lượng phòng không bảo vệ cầu Long Biên cuối năm 1972, đã được nhà thơ Minh Giang khắc họa:
"... Khi ta ngồi trên mâm pháo
Trong tư thế ngẩng đầu
Đĩnh đạc vít quân thù xuống đất
Vầng trán ta nâng bầu trời
Qua chiến đấu mười năm
Ta đã rõ
Vầng trán cao tới đâu
Bầu trời cao tới đó...".
(Vầng trán và bầu trời - Minh Giang).
Đương thời, bài thơ "Vầng trán và bầu trời" được nhà thơ - nhạc sĩ Văn Cao và bạn bè ông ở "Chiếu Văn" đánh giá là một trong những bài thơ hay trong rừng thơ kháng chiến Việt Nam.
Thơ với người lính cũng như một vũ khí tinh thần, họ làm thơ như một trách nhiệm góp phần vào chiến công từng trận đánh. Trong cuốn: "Điên Biên Phủ trên không - Chiến thắng của ý chí và trí tuệ Việt Nam", tác giả Lưu Trọng Lân - nguyên Phó trưởng phòng Tác huấn, Bộ Tham mưu Quân chủng PK-KQ, viết: "Ấn tượng nhất là hình ảnh "pháo đài bay" Mỹ bùng cháy giữa trời. Cả Hà Nội sáng lòa ánh lửa. Đó đây thấp thoáng cánh dù rơi:
Một vầng lửa lớn dần rồi sa xuống
Đèn Hà Nội tắt, nhưng bầu trời rực sáng
Chúng tôi nhìn rõ, không sai
Chính nó đấy Bê năm hai!".
(Trích thơ chiến sĩ - Nguyễn Huy Hùng).
Trong cuốn "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không - chiến thắng của lương tâm và phẩm giá con người", Trung tướng Hoàng Phương kể: "Sau khi nghe các đồng chí chỉ huy phân đội báo cáo tình hình đơn vị, tôi đến các khẩu đội nói chuyện với anh em - thông báo tin chiến thắng, biểu dương ưu điểm... Nét mặt mọi người rạng rỡ, khỏe khoắn thêm. Tôi trỏ vào tờ báo tường treo gần đó, nói tiếp:
- Các đồng chí chiến đấu bận rộn như vậy, nhưng vẫn ra được báo tường, đó là một biểu hiện tốt về tổ chức đời sống... Bây giờ còn thì giờ, giá có ai ngâm cho chúng mình nghe bài thơ trên báo tường?
Một chiến sĩ giơ tay, rồi ngâm bài thơ đã được "đăng" trên báo tường:
Bê năm hai - con chủ bài
Nó to cái xác, nó dài cái thân
Đạn ta như có mắt thần
Bủa vây lưới lửa cao tầm vươn xa
"Pháo đài bay" hết đường ra
Ăn đạn ta, cháy thành ma giữa trời
Đêm Hà Nội đẹp tuyệt vời
"Pháo đài bay" cháy rực trời Thăng Long!
("Pháo đài bay" hết đường ra).
Nhà thơ Hy Lạp - Mêlêla ca ngợi chiến công của Việt Nam bằng những vần thơ chân thực và đầy hình ảnh:
"Ôi! Việt Nam, đất nước của những căn nhà nhỏ
Của những con người tầm vóc không cao
Nhưng chiến công của họ
Thật vô cùng hiển hách và lớn lao...".
Hôm nay, đọc lại những vần thơ hào hùng viết trong chiến dịch "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", chúng ta càng thêm tự hào, nhớ về những chiến công và sự hy sinh thầm lặng của các thế hệ cha anh vì độc lập, tư do của đất nước. Những vầng lửa ngày ấy, những ánh hào quang ấy, mãi mãi ánh lên như những tràng pháo hoa lung linh, ngợi ca khí thiêng sông núi, đất trời Thăng Long, Hà Nội.
N.V.T