Góp ý sửa đổi Hiến pháp: Cần phát huy tính độc lập tương đối của các tổ chức thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Tôi cơ bản nhất trí với Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013. Tuy nhiên, về một số nội dung cụ thể, tôi thấy cần có sự điều chỉnh.

Điều 10 quy định “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, trực thuộc Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam; đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên Công đoàn và người lao động; “Là đại diện của người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về Công đoàn;...”. Tôi cho rằng đây là vấn đề hết sức quan trọng, phù hợp với thực tế hiện nay.

Để tránh sự lợi dụng, hiểu lầm, các tổ chức Công đoàn đều có quyền, đều có nhiệm vụ trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về Công đoàn. Nên bổ sung cụm từ: “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam”, trước cụm từ “...Là người đại diện của người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về Công đoàn”. Như vậy sẽ chặt chẽ hơn, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

Về Khoản 1, Điều 84, dự thảo Quy định: Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội (QH), Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Uỷ ban MTTQ Việt Nam có quyền trình dự án luật trước QH, trình dự án pháp lệnh trước UBTVQH”.

Tôi đề nghị để nguyên như điều 84 của Hiến pháp 2013. “MTTQ Việt Nam và cơ quan T.Ư của các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước QH, trình dự án pháp lệnh trước UBTVQH”. Vì trên thực tế, 5 tổ chức chính trị - xã hội (trong đó có Hội CCB Việt Nam) và khoảng trên 30 các tổ chức xã hội được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ. Số lượng các văn bản Luật, Pháp lệnh sẽ rất lớn trong một nhiệm kỳ của Quốc hội. Trong lúc tập trung về một đầu mối MTTQ sẽ rất khó khăn, tính khả thi không cao.

Mặt khác trong quy trình xây dựng luật bao giờ cũng phải báo cáo, trình đơn vị trực tiếp là MTTQ. Do vậy cần phát huy tính độc lập tương đối của các tổ chức thành viên, nhất là các tổ chức trong Hệ thống chính trị nên quy định quyền của các thành viên MTTQ được trình QH về dự án luật và dự án pháp lệnh trước UBTVQH sau khi đã báo cáo MTTQ.

Về Khoản 2, điều 115 của dự thảo, tôi đề nghị để nguyên như Hiến pháp 2013: “Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch UBND, các thành viên của khác của UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng Viện KSND...”. Vì TAND, VKSND là các cơ quan của nhà nước tại địa phương, bắt buộc chịu sự giám sát của nhân dân trong quá trình thực thi pháp luật tại địa phương. Dù không có TAND, VKSND cấp huyện, thì TAND, VKSND khu vực đều phải chịu sự giám sát của nhân dân. Không thể có cơ quan Nhà nước nào đặt ra ngoài sự giám sát quyền lực của nhân dân.

Trong thể chế chính trị của Nhà nước ta, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua người đại diện đó là Đại biểu HĐND các cấp. Nếu Đại biểu HĐND không có quyền chất vấn TAND, VKSND thì khi dân có oan sai, thì ai là người đại diện cho dân để kiến nghị với cơ quan chức năng.

Về hình thức giám sát, có giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp. Chất vấn bản chất của nó là hình thức giám sát trực tiếp. Mỗi hình thức giám sát có mục đích, ý nghĩa khác nhau. Thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND, đòi hỏi Chánh án và Viện trưởng phải trả lời trực tiếp và chịu trách nhiệm với phần trả lời của mình trước cử tri, trước HĐND.

Thiếu tướng Lương Hồng Phong - Ban Kiểm tra - Pháp luật, Hội CCB Việt Nam