Dự thảo và sửa đổi Hiến pháp liên quan đến đất đai: Góp phần ổn định trật tự xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân (13/06/2013)

Phải nói rằng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 sau khi đã tiếp thu chỉnh lý trên cơ sở ý kiến nhân dân và các tài liệu liên quan thì chất lượng của bản dự thảo lần này đã được nâng lên rất nhiều so với dự thảo ban đầu. Để dự thảo phản ánh được đầy đủ hơn tâm nguyện của cử tri, nhất là của các CCB, tôi xin tham gia góp ý thêm một số nội dung “Về quy định của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp liên quan đến đất đai”.

Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật đất đai hiện hành đang có nhiều kẽ hở trong việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng gây ra rất nhiều vụ khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp, đông người. Vì vậy, việc hiến định nội dung về quyền sử dụng đất và thu hồi đất cần được khẳng định rõ trong Hiến pháp và Điều 58 trong Dự thảo là phù hợp nguyện vọng của nhân dân và trách nhiệm của Nhà nước.

Theo quy định tại Điều 58 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp “…Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ”; “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội”.

Nghiên cứu quy định về đất đai trong các bản hiến pháp từ trước đến nay cho thấy chưa có hiến pháp nào quy định quyền sử dụng dụng đất là quyền tài sản. Đây là một điểm mới mà dự thảo Hiến pháp sửa đổi đề cập. Theo Điều 163, Bộ luật Dân sự hiện hành “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”; pháp luật dân sự của nhiều nước cũng quy định như vậy. Quy định này cho thấy, nếu xác định quyền sử dụng đất là quyền tài sản thì trong giao dịch dân sự, các chủ thể phải “đối xử” như tài sản. Trường hợp Nhà nước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, tổ chức thì mặc dù không có quyền sở hữu nhưng ngoài quyền sử dụng họ phải được định đoạt tài sản - một tài sản vô hình là quyền sử dụng đất theo Điều 164, Bộ luật Dân sự. Khi đã là tài sản thì Nhà nước phải thực hiện theo quy định tại Khoản 3, Điều 56 của Dự thảo: “Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không được quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua, trưng dụng hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường”, có nghĩa là Nhà nước không được thu hồi đất khi đã giao quyền sử dụng đất cho cá nhân, tổ chức mà phải trưng mua, trưng dụng theo giá thị trường. Tuy nhiên, đất đai là tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

Còn về việc thu hồi đất: Tương tự như việc xác định quyền sử dụng đất là quyền tài sản, việc thu hồi đất cũng chưa từng được hiến định trong các bản hiến pháp từ trước đến nay. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, quy định về thu hồi đất mới được bổ sung. Việc bổ sung này theo tôi là cần thiết nhưng phải quy định thế nào để vừa phù hợp với thể chế kinh tế Việt Nam, vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhất là mục đích thu hồi đất. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã hiến định mục đích thu hồi đất được quy định trong Luật Đất đai năm 2003: Để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội.

Trong các mục đích thu hồi đất, theo tôi không nên đưa mục đích thu hồi đất phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội chung chung vào Hiến pháp sửa đổi bởi chính có nội dung này vừa qua đã bị lợi dụng tạo điều kiện cho tham nhũng và lạm quyền. Quyền của người sử dụng đất không được bảo vệ. Thực tế, từ khi luật hóa việc thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội đến nay đã tạo điều kiện cho những người có quyền lợi dụng quy định này thu hồi đất tràn lan, gây thiệt hại cho người sử dụng đất, làm phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo (theo thống kê của Bộ TNMT, số đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng chiếm 70%). Không ít dự án đất bị thu hồi rồi bỏ hoang, Nhà nước thì thất thu thuế còn nông dân thì mất đất canh tác, lâm vào cảnh thất nghiệp, đời sống rất khó khăn. Để không ảnh hưởng đến hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, tôi đề nghị cần phân loại các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội có quy mô lớn, phục vụ lợi ích quốc gia do Quốc hội, Chính phủ phê duyệt, phải thu hồi đất thì coi đây là trường hợp thu hồi đất vì lợi ích quốc gia; còn các dự án khác hoặc dự án chỉ thuần túy nhằm kinh doanh, thương mại thì phải thực hiện chính sách bồi thường theo thỏa thuận, sát với giá thị trường. Có như vậy mới “bịt” được các kẽ hở trong việc thực thi pháp luật về đất đai, bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất, khắc phục được tình trạng khiếu nại, tố cáo phức tạp trong những năm qua, góp phần ổn định trật tự xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

P.K.Đ