Đầu xuân đi “tuyển quân”
Vậy là đã ba cái Tết Nhàn vắng chồng. Cưới nhau đã mấy năm nhưng chồng cô đi biền biệt. Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, Thắng có ý định cùng đơn vị hoàn thành công tác quân quản, ổn định trật tự, sẽ xin nghỉ phép. Nhưng rồi xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam, cả Quân đoàn lập tức hành quân lên biên giới. Đang chiến đấu với quân Pôn Pốt, lại được lệnh quay ra bảo vệ biên giới phía Bắc.
Tiếng súng trên bầu trời biên giới đã tạm lắng, nhưng chiến tranh vẫn chưa thực sự kết thúc. Sau khi tình hình tạm ổn, đơn vị anh về đóng quân ở Sóc Sơn. Nhàn xin nghỉ một tuần để khăn gói ra Bắc thăm chồng. Từ Quảng Bình ra Sóc Sơn hơn 500 cây số, hồi ấy giao thông không thuận tiện, chủ yếu đi bằng tàu hỏa. Mẹ chồng thương con dâu thân gái dặm trường, trao nắm cơm vắt muối vừng, căn dặn: Con đi xa nhớ giữ gìn sức khỏe, ra đó ở lâu lâu một tý để mẹ có cháu bồng cho vui cửa vui nhà! Nhàn và Thắng là người cùng làng, họ yêu nhau từ khi cô 17 và anh 20 tuổi. Sau khi học xong sư phạm, hai người làm lễ cưới rồi cô xin về dạy học ở xã bên để tiện chăm sóc bố mẹ già. Ngày ấy, chuyện bộ đội lấy giáo viên được xem là “mô hình” lý tưởng, nhiều đôi trẻước ao. Riêng Nhàn thì thấy hơi tủi thân, bởi chỉ được tiếng thơm chứ tình cảm thì vô cùng thiếu thốn. Người vợ trẻ phơi phới tuổi xuân, tràn đầy sức sống, đêm đông gió lùa khe cửa, chăn đơn gối chiếc, rạo rực nhớ chồng.
Quê Nhàn gần ga Minh Lệ, nhưng là ga nhỏ nên không thể lên tàu Thống Nhất, cô phải đi “tàu chợ”. Mà tàu này chỉ chạy ra đến ga Vinh, lại phải chuyển tàu. Đi tàu chợ ngày ấy thật vất vả, thật đúng nghĩa như tên gọi của nó. Trên tàu đủ thứ kẻ bán người mua, chật chội và hôi hám. Đáng sợ nhất là nạn móc túi, nhưng Nhàn chỉ giắt lưng vài ngàn đồng nên chẵng sợ. Lần đầu đi tàu hỏa, cô ngắm cảnh làng quê miền Trung xa dần, trông nhanh đến Hà Nội để đi tiếp. Đoàn tàu hình như không cần biết sự nóng lòng của cô, nó chạy chậm như rùa. Đến ga Vinh chuyển tàu, cô ra tới Hà Nội đã mất một ngày rưỡi. Nghe chồng bảo muốn tới đơn vị phải chuyển tàu lên Thái Nguyên, cô lại tiếp tục xếp hàng mua vé. Lên tàu, Nhàn mệt ngủ thiếp đi trong tiếng xình xịch nặng nề của đoàn tàu hướng miền trung du.
Đang ngủ gà ngủ gật, bỗng cô gái ngồi cùng ghế reo lên: Chị ơi dậy xem, núi Đôi kìa, đẹp quá! Nhàn như bừng tỉnh. Là giáo viênngữ văn, cô đã từng dạy học trò phân tích bài thơ “Núi Đôi” của Vũ Cao. Giờ thì hai ngọn núi như hai bát úp khổng lồ, tựa như đôi hồng đào tiên nữ đã hiện ra bên cửa sổ đoàn tàu. Những câu thơ đầy lãng mạn cứ văng vẵng bên tai: “Em vẫn đùa anh sao khéo thế/ Núi chồng núi vợ đứng song đôi”… Đang đắm chìm trong những tứ thơ haythì Nhàn bỗng nhớ ra lời anh dặn: Qua núi Đôi một chút là em xuống ga Trung Giã, chờ anh ra đón.
Thời ấy làm gì có điện thoại như bây giờ mà nhắn gọi. Đất khách quê người, cô xuống tàu khi trời đã nhá nhem. Thực ra cô cũng không biết chính xác anh ở đơn vị nào, chỉ biết là bộ đội pháo binh và cái hòm thư toàn những con số. Màn đêm buông xuống nhanh làm cho cô hơi hoang mang. Bỗng có một anh bộ đội xách cái túi to và nặng đi qua sân ga. Cô liền gọi cầu may:
- Anh bộ đội ơi, cho em hỏi nhờ tý, anh có biết đơn vị này ở đâu không ạ? Anh nhìn cô từ đầu đến chân, rồi hỏi: Cô ở đâu tới, tìm đơn vị có việc gì? Nhìn anh có vẻ nghiêm khắc, Nhàn nở nụ cười làm quen, rồi nói: Dạ, em đi, em đi thăm chồng, là anh Trần Văn Thắng - Trung úy, nhờ anh giúp ạ.
Thấy cô gái có vẻ thật thà, lại xinh nữa, nên “anh quân bưu khó tính” đón cáiphong bì cô trao, xem kỹ hòm thư rồi dịu dọng: Chồng cô thì tôi không biết, nhưng đơn vị này thì gần đây thôi, ngày nào mà tôi chẵng đưa thư báo tới. Cô ngồi lên xe, tôi đưa đến tận nơi! Niềm vui bất ngờ, Nhàn vội trèo lên chiếcxe mô tôba bánh chất đầy thư báo. Xe chạy vài cây số là tới cái cổng sơn màu đỏ, có dãy chữ nghiêm trang đề: “Doanh trại QĐND Việt Nam”. Nghe đồng chí trực ban thông báo, Trung úyThắng vừa đi vừa chạy ra cổng. Chưa hỏi han gì anh đã ôm chầm lấy cô, làm cho Nhàn thẹn thùng đỏ mặt với mấy anh bộ đội đứng nhìn.
Đôi vợ chồng trẻ được bố trí ở ngôi nhà gần trực ban, gọi là “chiêu đãi sở”. Nhiều đơn vị ở tuyến sau thường có căn phòngnhư thế, có nơi gọi là “phòng hạnh phúc” để đón tiếp vợ đến thăm chồng. Đơn vị của anh mới dừng chân, còn khó khăn nên phòng hạnh phúc mới được cải tạo từ ngôi nhà của vệ binh, còn đơn sơ. Vách nhà chủ yếu làđan tre nứa, dán thêm vài tờ báo, những chuyện tế nhị có thểlan truyền tạo nên nhiều giai thoại vui trong đơn vị.
Anh em đồng đội đến chào hỏi rôm rả, lại cẩn thận nhắc khéo: Cô Nhàn chuyến này đi “tuyển quân” nhớ đạt chất lượng tốt nhé! Chính trị viên thìvỗ vai Thắng: Cậu là pháo thủ xuất sắc ở Đồng Đăng, gần như trăm phát trăm trúng, nhớ phát huy tài năng, đừng để cô Nhàn thất vọng nhé. Chuyện trò tới10 giờ đêm thì cánh lính tinh nghịch mới ra về, để lại không gian riêng cho đôi vợ chồng. Trong căn phòng nhỏ, mọi thứ đều mới và thơm mùi bộ đội, Nhàn thấy vừa yêu vừa khó ngủ. Sau bao năm xa cách họ mới gặp nhau. Dạo mới cưới, mang tiếng hưởngtuần trăng mật nhưng thời gian chủ yếu dành đi thăm bà con họ hàng, lại tranh thủ sửa sang ngôi nhà cho bố mẹ nên chẵng gần gũi nhauđược bao nhiêu. Chưa hết phép, Thắng đã có lệnh về đơn vị gấp nên nỗi nhớ chồng cứ rạo rực trong cô.
Đêm trung du thật êm dịu, thỉnh thoảng có tiếng côn trùng hòa nhạc. Giàn thiên lý trước cửa nhà khách tỏa hương nhè nhẹ. Thắng ôm vợ vào lòng, anh thương cô bao năm xa cách, thiếu thốn hơi ấm của chồng. Ở nhà, Nhàncũng nhớ anh da diết nhưng đành lấy việc dạy học làm niềm vui. Tình cảm hai người dồn nén bấy lâu nay chực bung ra, rạo rựcvà mãnh liệt.
Nhàn ở lại thăm chồng một tuần, ban ngày anh bận huấn luyện, cô xuống bếp giúp nuôi quân, rồi cùng bộ đội trồng rau. Ngày chủ nhật, Thắng mượn xe tiếp phẩmchở Nhàn đến núi Đôi chơi. Hai người trèo lên sườn đồi thấy bạt ngàn sim mua, anh cài lên mái tóc cô bông hoa mua tím. Nhàn âu yếm nhìn chồng rồi khe khẽ đọc: “Bảy năm về trước em mười bảy/ Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng”… Thắng cũng hào nói: “Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”. Hai người nằmdài trên bãi cỏ, say đắm như ngày mới yêu nhau.
Chuyến tàu đưa Nhàn trở về quê cũng chậm chạp như lúc cô ra Bắc, nhưng trạng thái của cô thì khác hẳn. Hình ảnh ngôi nhà hạnh phúc đơn sơ của bộ đội mới sửa sang làm cô xúc động lạ kỳ. Hơi ấm của chồng và sự nồng ấm tình cảm đồng đội như còn đọng mãi trong tâm trí cô. 45 mùa xuân đã qua, chú bộ đội con trong đợt tuyển quân năm ấy nay đã trưởng thành, làm lính pháo binh ngày đêm bảo vệ vùng biển quê hương.
Truyện ngắn của Xuân Vui