Chiến thắng 30-4-1975, những điều đọng lại
Những người dân từ già đến trẻ, những sĩ quan và binh sĩ ở khắp các vùng quê, khắp các chiến trường đều lâng lâng trong niềm vui khôn xiết. Họ ôm nhau vào lòng, họ hô đến lạc cả giọng “Chiến thắng, chiến thắng rồi”.
Cuộc chiến tranh dai dẳng, dài ngày mà đế quốc Mỹ thế chân thực dân Pháp trên chiến trường bằng thực hiện các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”… Nhưng! Tất cả các chiến lược đó đều lần lượt bị phá sản và kết cục họ phải cuốn cờ, cúi đầu, ôm hận ra đi.
Cuộc chiến tranh tuy đã kết thúc, nhưng nó sẽ còn làm mất nhiều công sưu tầm và nhiều giấy bút của các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự trên thế giới (nhất là phía Mỹ) tìm lời giải: “Vì sao Mỹ thất bại?”.
Tuy nhiên, nếu hiểu lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam và dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật thì sẽ lý giải được câu hỏi có phần hóc búa trên.
Cho dù các chính trị gia, các nhà nghiên cứu quân sự có đánh giá thế nào, có nghiên cứu thế nào đi nữa thì sự thật cũng đã rõ ràng và chiến thắng 30-4-1975 vẫn là một chiến thắng có ý nghĩa lớn lao, một mốc son chói lọi của lịch sử đấu tranh giữ nước và khôi phục sự thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam chúng ta.
Đúng như Đảng ta đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất. Một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV).
Nhớ lại cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân cả nước mà trực tiếp là quân dân miền Nam chúng ta càng củng cố lòng tin và tự hào về sự lãnh đạo tài tình của Đảng trong xử lý chiến tranh, mà điển hình là Chiến dịch Xuân 1975: Khi thời cơ chưa đến, thì kiên trì căng kéo đối phương, tạo ra tâm lý bất an cho địch, đồng thời “rèn cán, luyện quân” tăng cường củng cố thế và lực. Khi thời cơ đến, cần giải quyết nhanh chiến trường thì chủ động tập trung mọi nguồn lực. Tập trung đến mức được ví “một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy mà chúng ta luôn ở thế làm chủ chiến trường. Ngược lại đối phương thì rơi vào thế bị động.
Trong chiến dịch Xuân 1975, nhiều tướng lĩnh của Mỹ, ngụy bất ngờ đến ngạc nhiên; lúng túng đến kinh hoàng trước việc điều hành chiến tranh hết sức chủ động, đĩnh đạc; nhất là tài tận dụng triệt để mọi thời cơ để vươn lên làm chủ từng vùng, tiến tới làm chủ toàn bộ chiến trường của Quân đội ta.
Nhớ lại cuộc Tổng tiến công nổi dậy Xuân 1975 chúng ta càng tự hào về tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường của cán bộ chiến sĩ và các lực lượng vũ trang nhân dân. Có thể nói từ Bộ chỉ huy cao nhất của QĐND Việt Nam đến người chiến sĩ cầm súng trên chiến trường đều toát lên tinh thần nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh của Đảng, nguyện vọng của nhân dân và nhận thức sâu sắc lời Bác Hồ đã dạy “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Sức mạnh quân sự trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy Xuân 1975 là kết quả được đúc rút từ tổ tiên, ông cha ta đánh giặc; từ thực tiễn của chiến tranh và cả một quá trình dày công xây dựng lực lượng, củng cố tiềm lực, nên khi thời cơ đến, cần tập trung lực lượng, cần hợp đồng tác chiến ở quy mô lớn, cần cường độ cao là chúng ta chủ động quyết định được ngay. Mà biểu hiện sinh động nhất là trong cuộc tiến công tổng lực của quân và dân ta vào hang ổ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, tháng 4-1975: Năm cánh quân hợp vây như chiếc thòng lọng khổng lồ dần dần thít lại, làm cho cố vấn và chính quyền quân ngụy không còn đường thoát ra.
Biến đường lối lãnh đạo của Đảng thành hiện thực trên chiến trường là ai? Đó là những đoàn quân “đầu trần chân đất”, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nhân dân, “người có súng dùng súng, người có dao dùng dao. Người không có súng, có dao thì dùng gậy guộc, đòn seo” tất cả kết thành một làn sóng, rầm rập đổ về giành lại chính quyền ở các chi khu, các quận lỵ, tỉnh lỵ.
Đòn phối hợp tấn công từ chiến tranh nhân dân, có lẽ đến nay cũng chưa phải đối phương đã nhìn nhận ra. Nhưng nó lại là sức mạnh quyết định, làm cho quân thù hoang mang hoảng loạn, nhiều nơi tự tan rã, đầu hàng rất nhanh.
Nói về Chiến dịch Xuân 1975 nhiều nhà nghiên cứu, nhiều chuyên gia quân sự đều có chung một nhận xét: “Đây là một chiến dịch lớn nhất, được huy động số quân, số người và binh khí, khí tài lớn nhất, hiện đại nhất của quân và dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lúc bấy giờ”.
Tại cuộc Hội thảo cấp Nhà nước về 30 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, trong bài tham luận của mình Đại tướng Lê Đức Anh-nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, cho rằng quân ta vượt trội về mọi mặt cả số lượng và chất lượng. Và chiến thắng của trận đánh cuối cùng là một điều tất yếu.
Chiến tranh đã lùi xa, đất nước ta đã thống nhất, nhân dân ta có cuộc sống thanh bình, tuy chưa thật đầy đủ về vật chất song mọi người có quyền tự hào là người dân của đất nước hòa bình. CCB Việt Nam những người đã từng gắn bó đời mình trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước thì những ngày này lại càng gợi lên nhiều ký ức. Vui nhiều nhưng đau buồn cũng không ít, bởi lẽ còn biết bao đồng đội, đồng chí đã anh dũng hi sinh trên chiến trường nay vẫn chưa trở về được với đất mẹ. Nhiều liệt sĩ chưa tìm lại được danh tính. Đây là nỗi khắc khoải khôn nguôi của những người đang sống.
Chiến tranh là điều không ai mong muốn. Và chiến thắng nào cũng có giá phải trả. Tấm gương hi sinh anh dũng vì dân, vì nước của các Anh hùng liệt sĩ sẽ là động lực để CCB chúng ta đoàn kết lại cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết giữ gìn thành quả cách mạng mà chúng ta phải kiên cường chiến đấu gian khổ hi sinh mới giành lại được.
Thiết thực nhất là, lực lượng CCB chúng ta phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tham gia xây dựng bảo vệ Đảng, nhà nước, chế độ XHCN, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và bảo vệ nhân dân ở ngay từ cơ sở. Đồng thời phát huy nội lực, tự lực, tự cường giúp nhau làm kinh tế giỏi, giảm nghèo nhanh và bền vững, làm giàu hợp pháp, chăm lo giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, xây dựng Hội TSVM, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho.
P.K.Đ