Bức tranh “Đồng đội” (31/12/2009)

“Đồng đội”, hai tiếng thiêng liêng đã nâng đỡ tôi qua bao nỗi khó của đời. Với tâm niệm ấy, tôi vẽ bức tranh “Đồng đội”. Nền tranh đỏ một màu máu, chính giữa tranh là hai người lính đang cõng nhau tìm về đơn vị. Cây rừng và vách đá Trường Sơn, một mảnh trăng vắt ngang trời...

Nguyên mẫu trong tranh là người lính Nguyễn Kim Duyệt cùng đồng đội bị thương vào thời điểm sau trận đấu tăng dữ dội ở Cửa Việt (Quảng Trị), tôi nhận nhiệm vụ thâm nhập vào các đơn vị xe tăng thuộc 4 đại đội của Lữ đoàn xe tăng 203. Chụp ảnh và ký họa các trận đánh chống lấn chiếm và nếu có điều kiện mở lớp dạy vẽ cho bộ đội. Các trận đánh thường xảy ra về đêm. Ban ngày tôi mở lớp dạy vẽ. Lớp được tổ chức ngay dưới bóng những cây phi lao ven bờ biển Cửa Việt mà học viên chỉ cần ngoảnh ra 200m là thấy hàng đống xác xe tăng M41, M48 còn ngổn ngang dọc bờ biển. Vì tiểu đoàn bộ đóng ở Cửa Việt nên tiểu đoàn trưởng Ngô Nhỡ (người đã hy sinh lúc 10 giờ trên cầu Sài Gòn sáng 30-4-1975) nói: “Ưu tiên tiểu đoàn bộ được hai người, đại đội 3 được một người, còn đại đội 4 (anh Bùi Quang Thận, sau này cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập chỉ huy, ở xa quá, tận A Sầu – A Lưới) thì thôi”.

Trong bốn học viên của lớp vẽ “dã chiến” đó có Nguyễn Kim Duyệt. Đó là một người hiền lành, ít nói, mặt hao gầy, vài nốt trứng cá. Cả bốn học viên đều có những biểu hiện bất thường của tình cảm như: Đột nhiên hát rống lên, đang vẽ vứt bút chạy lồng như ngựa, lăn lộn trên cát, hoặc có hôm bỏ vẽ, bỏ cả cơm... Sau này tôi hiểu đó là hiệu ứng tâm thần của chiến tranh. Riêng Duyệt thì lầm lỳ, thỉnh thoảng ghi ghi, chép chép rồi nhoẻn miệng cười như một đứa trẻ. Tôi ngó vào cặp vẽ, thấy hình hai người đang cõng nhau. Người nằm trên máu chảy ròng. Người cõng, cổ còn đeo khẩu AK, bên thắt lưng da là cái bi đông thủng, quân phục rách tướp, cạnh đó có cái cây bị bom phạt đổ... Duyệt bảo: “Thằng Hưng, cũng dân Hà Nội anh ạ, ở Hàng Mã. Em đưa được đến binh trạm rồi mà vẫn không cứu được, ra máu nhiều quá...”. Ngày chia tay, Duyệt bảo: “Anh chụp cho chúng em “pô” ảnh, ra Bắc chuyển đến cho mẹ em ở 80 Đại La nhé...”. Tôi đã chụp ảnh và đem đến cho mẹ anh nhưng lúc ấy gia đình còn ở nơi sơ tán chưa về đành gửi hàng xóm. Mãi đến 28-4-2004, tôi cùng Lê Đức Tuân, Nguyễn Khắc Nguyệt là bạn chiến đấu cùng xe tăng với Duyệt đến thắp hương cho anh mới gặp mẹ anh. Bà đã hơn 80 tuổi, tóc trắng phơ phơ, dáng cao mặt hơi gầy, lưng còng xuống trong nỗi nhớ thương con. Trên bàn thờ là ảnh Nguyễn Kim Duyệt đội mũ tai bèo ngồi trên tháp pháo xe tăng đo đo, vạch vạch do tôi chụp. Đó chính là bức ảnh cuối cùng của anh.

Nguyệt kể: Đầu tháng 4-1975, xe 380 của tôi lái được bổ sung một pháo thủ người Hà Nội. Chơi ghi-ta rất hay và vẽ rất cừ, đặc biệt hơn là tài nấu ăn. Sau những lần nghỉ ngắn bao giờ chúng tôi cũng có ngay một ca sữa nóng, bữa ăn hàng ngày cũng đàng hoàng hơn các xe khác. Duyệt có 2 cái ba lô, anh luôn giữ khu khư một cái. Điều đó gây sự nghi ngờ cho đồng đội. Vì buồng lái chật chội, phải dành chỗ cho đạn pháo và thao tác chiến đấu nên trưởng xe yêu cầu Duyệt phải đưa một ba lô ra ngoài tháp pháo. Chiếc ba lô “bí mật” của Duyệt vẫn được giữ lại trong xe. Ngày 28-4-1975 xe 380 tham chiến, tấn công căn cứ Nước Trong. Đó là một tuyến phòng ngự khá vững chắc của địch ở cửa ngõ phía đông Sài Gòn. Đến gần trưa thì xe 380 bị trúng một viên đạn, tháp pháo bị khoan thủng một lỗ đúng cửa thông gió, đút lọt nắm tay. Trưởng xe Luông và pháo thủ Duyệt bị thương nhưng Duyệt bị nặng hơn, cả nửa người tả tơi, đầm đìa máu. Khi chúng tôi đưa hai người vào bệnh xá tiền phương, Duyệt vẫn còn tỉnh táo. Lúc tôi chuyển chiếc ba lô “bí mật” của Duyệt ra khỏi xe thì sững người, ngoài bộ tăng võng bọc ngoài còn lại là sách học tiếng Anh và từ điển mà Duyệt đã gom nhặt từ Huế, Đà Nẵng... Cho đến giờ và chắc chắn đến cả lúc giã biệt cuộc đời tôi không thể nào quên cảm giác khi vết xích xe tăng cày nát thảm cỏ khoảng sân trước cửa dinh Độc Lập. Ý nghĩ đầu tiên, duy nhất, ào ạt xâm chiếm lòng tôi khoảnh khắc đó chỉ là hai tiếng “Đồng đội”! Những người đã vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Ngày nay Duyệt đã an nghỉ ở Long Thành. Còn Lược, Lạc, Luyến, Kiểm, Hùng, Tình, Chính... giờ này các anh ở đâu? Chắc rằng xương thịt các anh đã hòa tan vào núi rừng, cây cỏ quê hương. Biết bao đồng đội còn sống của tôi. Số phận đã đưa đẩy các anh tới bến bờ nào? Bao giờ chúng ta sẽ lại gặp nhau, nằm ngửa trên thảm cỏ, rửa mặt chung ở bồn phun nước cửa Dinh Độc Lập...?

Tôi vẽ bức tranh “Đồng đội” vào dịp hơn 30 năm sau ngày hy sinh của Nguyễn Kim Duyệt.

Họa sĩ LÊ TRÍ DŨNG