20 kỷ lục Việt Nam của thủ đô Hà Nội (10/10/2010)
1. Nơi duy nhất chứng kiến sự ra đời của 3 bản Tuyên ngôn độc lập Đó chính là mảnh đất Thăng Long - Hà Nội. Nơi đây vinh dự chứng kiến sự hình thành và công bố hai tác phẩm văn hóa chính luận bất hủ của hai tác gia danh tiếng, hai danh nhân văn hóa thế giới: “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi vào đầu thế kỷ XV và “Tuyên ngôn Độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào giữa thế kỷ XX. Hai tác phẩm trên cùng với bài thơ “Nam quốc sơn hà” vẫn cho là của Lý Thường Kiệt, vào nửa sau thế kỷ XI, được các nhà sử học coi như “Ba bản Tuyên ngôn độc lập” của dân tộc Việt Nam.
2. Thành phố có nhiều đầm hồ nhất Thăng Long - Hà Nội có nhiều hồ đầm tự nhiên hình thành do quá trình biến đổi dòng chảy qua các thời kỳ kiến tạo địa chất, địa mạo, do sự bồi lấp tự nhiên và do cả sinh hoạt xã hội - con người tác động. Vào thập niên cuối của thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu ghi nhận có đến hơn 40 hồ đầm lớn nhỏ ở Hà Nội, trong đó 3 hồ nổi tiếng nhất nằm trong nội thành là hồ Tây, hồ Trúc Bạch và hồ Gươm.
Hiện nay, do điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính nên Hà Nội bao gồm thêm nhiều hồ nổi tiếng như hồ Suối Hai (rộng gấp đôi hồ Tây), hồ Đồng Mô - Ngải Sơn ở huyện Ba Vì, hồ Đại Lải ở huyện Mê Linh, hoặc hệ thống hồ Quan Sơn từng được xem là “Hạ Long thu nhỏ” của đất Hà Tây trước đây.
3. Thành phố lớn nhất Sau khi điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội trở thành thành phố lớn nhất cả nước với tổng diện tích 3.324,92km2, gồm 10 quận, 1 thị xã, 18 huyện ngoại thành, đứng đầu cả nước về diện tích và nằm trong số 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới.
Trước đó, Hà Nội cũng đã trải qua nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính. Cụ thể, năm 1954, diện tích của Hà Nội là 152km2. Năm 1961, thành phố được mở rộng, tăng diện tích lên 584km2. Đến năm 1978, thủ đô lại một lần nữa được mở rộng diện tích, lên 2.136km2. Năm 1991, địa giới Hà Nội lại tiếp tục thay đổi, thu hẹp lại còn 924km2.
4. Thành phố có nhiều di tích danh thắng nhất Là mảnh đất nghìn năm văn hiến*,* Hà Nội lắng đọng những tinh hoa văn hóa của dân tộc suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước với hơn 4.000 di tích danh thắng (trong đó có hơn 1.000 di tích đã được xếp hạng quốc gia), cộng với một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể vô cùng phong phú.
Những di tích danh thắng nổi tiếng của Hà Nội phải kể đến là: thành Cổ Loa, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chùa Một Cột, hồ Hoàn Kiếm, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh thắng Hương Sơn, chùa Thầy, chùa Tây Phương, Hoàng thành Thăng Long, làng cổ Đường Lâm… Bên cạnh đó, Hà Nội còn có hơn 1.200 làng nghề cùng nhiều lễ hội độc đáo và một nền văn hóa ẩm thực đa dạng, đặc sắc.
5. Thành phố có hệ thống bảo tàng nhiều nhất Đến Hà Nội, mọi người sẽ được hướng dẫn đến các bảo tàng như: Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Cách, Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng chiến thắng B52, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng phụ nữ Việt, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Mỹ Thuật, Bảo tàng Hà Nội… Đến với các bảo tàng của thủ đô, qua những tài liệu, hiện vật trưng bày, người xem sẽ được quay trở lại những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
6. Thành phố có tên phố và ngõ bắt đầu bằng chữ “Hàng” nhiều nhất Thăng Long - Hà Nội xưa có tới hơn 50 tên phố, ngõ được bắt đầu bằng chữ Hàng. Mỗi tên phố được gắn với một sản vật mà nơi đó buôn bán hoặc là nghề nghiệp của người dân nơi đó như Hàng Giấy, Hàng Bút, Hàng Gạo, Hàng Cá, Hàng Đường, Hàng Khoai, Hàng Bột, Hàng Dầu…
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, qua các tài liệu cũ ta thấy có tới 72 tên phố, ngõ bắt đầu với chữ “Hàng”, gắn với những thứ hết sức quen thuộc trong đời sống thường nhật: Cỏ, Chuối, Chĩnh, Chiếu, Chỉ, Chè, Cháo, Chai, Cau, Cân, Cá, Bừa, Bút, Buồm, Bún, Bột, Bông, Bè, Bồ, Bát Đàn, Bát Sứ, Cơm, Cót, Da,…
7. Công trình Đài Nghiên - Tháp Bút duy nhất Năm 1865, khi tôn tạo trùng tu đền Ngọc Sơn, danh nho đất Hà thành Nguyễn Văn Siêu đã cho xây dựng nhiều hạng mục mới, trong đó có Tháp Bút - Đài Nghiên. Đến nay, trải qua hơn trăm năm, Tháp Bút - Đài Nghiên trở thành một hình ảnh rất đỗi quen thuộc với người Việt Nam, là một trong những biểu trưng của đạo học, ca ngợi truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam.
Tháp Bút có hình một ngòi bút dựng ngược, gồm 5 tầng, cao 28m, nằm trên một ngọn đồi nhân tạo bằng đá (núi Độc Tôn). Thân tháp khắc ba chữ Hán “Tả thanh thiên” (viết lên trời xanh). Cạnh Tháp Bút, trên mái lớp cổng thứ ba của đền Ngọc Sơn có đặt một Đài Nghiên. Đó là một cái nghiên mực bằng đá có hình nửa trái đào bổ ngang theo chiều dọc. Đài Nghiên cao 0,3m, dài 0,97m và được đội lên bởi ba chú cóc ở phía dưới.
8. Làng cổ đầu tiên được công nhận di tích lịch sử quốc gia Là vùng đất cổ có quá trình hình thành và phát triển liên tục, Đường Lâm hội đủ các giá trị văn hóa tiêu biểu của làng cổ Việt Nam nói chung và Hà Tây (cũ) nói riêng. Ngoài khoảng 800 ngôi nhà cổ bằng đá ong, về di sản văn hóa vật thể gồm đình, chùa, miếu, lăng, mộ… làng cổ Đường Lâm có 21 di tích, trong đó có 10 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và cấp tỉnh, trong đó có chùa Mía được đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Ngày 28/11/2005, làng cổ Đường Lâm được Bộ Văn hóa - Thông tin ký quyết định công nhận di tích quốc gia. Đây là làng cổ đầu tiên trong cả nước được xếp hạng di tích quốc gia.
9. Trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông (1066-1128) cho xây dựng Quốc Tử Giám. Năm 1236, trường được mở rộng, đổi tên là Quốc Tử Viện, sau là Quốc Học Viện, triều Lê đổi tên là Thái Học Viện có quy mô kiến trúc khang trang, bề thế gồm có cửa Thái Học, nhà Minh Luân, giảng đường phía Đông, phía Tây, kho chứa ván gỗ khắc sách, hai khu Tam xá cho giám sinh nghỉ ngơi. Quốc Tử Giám tồn tại hơn 700 năm, đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước và được coi là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.
10. Nơi có hệ thống văn bia Tiến sỹ nhiều nhất
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070, tức năm Thần Vũ thứ hai đời vua Lý Thánh Tông. Từ khoa thi năm 1442 trở về sau, những người đỗ Tiến sĩ được vinh danh tên tuổi trong các kỳ thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc (1442-1779).
Trên mỗi tấm bia khắc một bài văn (bài ký) bằng chữ Hán, nội dung ghi lại lịch sử của các khoa thi tổ chức từ năm 1442 đến 1779. Trong đó, tấm bia đầu tiên xây dựng từ năm 1484 đời vua Lê Thánh Tông, ghi lại lịch sử khoa thi năm 1442. Tấm bia cuối cùng dựng vào năm 1780 cho khoa thi tổ chức vào năm 1779. Có 82 tấm bia tương ứng 82 khoa thi khắc tên 1.304 vị Tiến sĩ. Đến nay, 82 tấm bia Tiến sĩ vẫn còn nguyên vẹn giá trị văn hóa, lịch sử xứng đáng trở thành di sản tư liệu thế giới.
**11. Bia Tiến sỹ đầu tiên **
Văn Miếu Hà Nội lưu giữ 82 tấm bia tiến sĩ dựng từ năm 1484 đến 1780, ghi họ tên và quê quán của 1.307 vị tiến sĩ của 82 khoa thi được tổ chức từ 1442 đến 1779. Tấm bia tiến sĩ đầu tiên được khắc cho khoa thi 1442, bia cuối cùng khắc cho khoa thi 1779.
Bia tiến sĩ đều được tạo bằng một loại đá xanh, khai thác từ núi An Thạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, kích thước không đều nhau, chạm khắc hoa văn tinh xảo, nằm đối xứng hai bên giếng Thiên Quang. Bia được đặt trên lưng rùa, biểu hiện cho sự tôn trọng hiền tài và trường tồn mãi mãi.
Tấm bia tiến sĩ của đầu tiên của Việt Nam là tấm bia của khoa Nhâm Tuất niên hiệu Bảo Đại 3 (1442), được vua Lê Thánh Tông (1442-1497) cho dựng vào năm 1484. Trên tấm bia 1442 có ghi tên 33 vị tiến sĩ, người đỗ Trạng nguyên là Nguyễn Trực, Bảng nhãn là Nguyễn Như Đổ và Thám hoa là Lương Như Hộc.
12. Toà thành cổ nhất Thành Cổ Loa do vua An Dương Vương xây cách đây hơn 23 thế kỷ, là tòa thành cổ nhất trên đất Hà Nội. Thành Cổ Loa được đắp vào năm 225 trước công Nguyên, là kinh đô khi Thục Phán - An Dương Vương dựng nước Âu Lạc xây dựng nên. Đây là ngôi thành cổ xưa nhất và cũng là một công trình kiến trúc quân sự độc đáo của Việt Nam nằm trong xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.
13. Trường Mỹ thuật đầu tiên Đó là trường Mỹ thuật Đông DươngÉcole supérieure des beaux arts de l’Indochine mở tại Hà Nội và khai giảng ngày 17/10/1924, do ông Victor Tardieu, một họa sĩ người Pháp tâm đắc với hội họa, làm hiệu trưởng.
Tính đến Cách mạng Tháng Tám 1945, trường đã đào tạo được 17 khóa, trong đó có 13 khóa trọn vẹn với nhiều họa sĩ và nhà điêu khắc nổi tiếng của Việt Nam sau này như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Trần Văn Cẩn...
Năm 1950, trường chuyển thành trường Mỹ thuật Trung cấp ở chiến khu Việt Bắc. Sau năm 1954, trường chuyển về Hà Nội và mang tên mới Trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội.Năm 1981, trường nâng lên bậc đại học và mang tên trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Đến năm 2008, chuyển thành trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam.
14. Trường Đại học Y đầu tiên Vào năm 1902, chính quyền Pháp quyết định thành lập Trường Đại học y dược đầu tiên của bán đảo Đông Dương theo mô hình phương Tây ở Việt Nam, đó là Trường đại học Y dược Hà Nội. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là một thầy thuốc nổi tiếng: Bác sĩ Yersin. Ngày 15/11/1945, Trường Đại học Y dược Hà Nội khai giảng năm học đầu tiên của một quốc gia độc lập.
Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn giải phóng, trường một mặt củng cố để ổn định phát triển, một mặt tiếp tục chi viện nguồn lực con người cho các trường đại học y phía Nam: Đại học Y Huế, Đại học Y dược TP.HCM, Đại học Y dược Cần Thơ, Y khoa Thái Nguyên. Đến nay nhà trường đã đào tạo trên 17.000 bác sĩ chính quy, khoảng 10.000 học viên sau đại học.
15. Khu vườn duy nhất có nhiều giống cây trái đặc trưng 3 miền Đó là khu vườn nhà Bác Hồ, nơi Người ở và làm việc từ ngày 17/5/1958 cho tới khi qua đời. Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường đẹp rải sỏi, hai bên trồng xoài, dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn, bình dị, giữa những vòm cây. Hàng rào râm bụt bao quanh nhà.
Cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau mang phong vị dân dã. Hai cây dừa - cây dừa lửa của đồng bào ta ở Thái Lan và cây dừa hai thân của tỉnh Vĩnh Phú biếu Bác - tỏa bóng xanh mát. Những khóm lại, tầm xuân từ mảnh vườn nhỏ trước cửa thoang thoảng đưa hương.
Sau nhà là vườn quả. Cây vú sữa của đồng bào miền Nam gửi ra biếu Bác từ năm 1954, cành lá xum xuê đứng giữa những hàng cam Hải Phòng trĩu quả vàng tươi và hàng trăm loài cây quý thuộc hơn 30 họ thực vật do các Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và các địa phương đưa về trồng, có nhiều cây đặc sản như bưởi Phúc Trạch, Thanh Hóa, Biên Hòa, Mê Linh; cam Xuân Mai, Vân Du, Xã Đoài, Sông Con; quýt Hương Cần, Lý Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ; song mai Đông Mỹ; hồng Tiên Điền chiết từ cây hồng của quê hương nhà thơ Nguyễn Du…
Khu vườn của Bác còn có cả những loại cây nhập từ nước ngoài như 11 cây ngâu hoa trồng cạnh nhà sàn, 5 cây bông bụt mọc quanh ao, 26 cây cau vua gốc từ Ca-ri-bê, cây tre bụng Phật…
16. Làng làm nghề ảnh sớm nhất Đó là làng Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức. Nguyên người làm nghề ảnh sành sỏi và tài năng nhất vào những năm 1900-1910 ở Hà Nội là ông Khánh Ký vốn người gốc làng Lai Xá. Vì thế khi cơ ngơi đã vững vàng, ông đã về quê vận động bà con làng xóm học nghề làm ảnh.
Được ông dìu dắt, khuyến khích, dần dần có đến hàng trăm thợ ảnh lành nghề xuất thân từ làng Lai Xá và tỏa đí khắp nơi mở hiệu ảnh làm ăn. Về sau, nghề này thành nghề truyền thống, cha truyền con nối nhiều thế hệ ở làng.
17. Phố có nhiều cổng làng nhất Phố Thụy Khuê dài 3,2km, bắt đầu từ giao điểm của phố Quán Thánh - đường Thanh Niên chạy dài đến ngã ba đường Bưởi - Lạc Long Quân. Đây là con phố có nhiều di tích, đình, chùa, miếu cổ đã được xếp hạng như đền Thụy Khuê, đền Đồng Cổ, chùa Mật Dụng, đền Vệ Quốc, đình Yên Thái. Và đặc biệt, phố còn là nơi lưu giữ hàng chục cổng làng, một chứng tích của “làng quê lên phố”.
Đó là những cổng Giếng, cổng Hầu, cổng Chùa, cổng Đông, cổng Cái, cổng Xanh… đã trở nên thân thuộc với người dân địa phương từ bao thế kỷ nay. Những cổng làng đã góp phần lưu giữ hồn quê giữa phố, lưu giữ lại không gian làng xã ấm cúng, thân thuộc của người Việt Nam, mang đến cho Thụy Khuê một vẻ đẹp sâu lắng rất riêng mà khó có con phố nào ở thủ đô có được.
18. Cây cầu sắt nhiều tuổi nhất Cầu Long Biên xây dựng từ năm 1899 đến năm 1902, dài 1862m gồm 19 nhịp dầm thép và đường dẫn bằng đá. Cầu được đặt tên là Paul Doumer (tên của Toàn quyền Đông Dương), nhưng người Hà Nội vẫn quen gọi là cầu Long Biên hay cầu sông Cái. Vào đầu thế kỷ XX, Long Biên là một trong 4 cây cầu lớn nhất thế giới, một công trình sắt thép đồ sộ nhất bán đảo Đông Dương.
Cầu Long Biên là cây cầu đã đi qua 3 thế kỷ. Phía trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc chữ “1899-1902 - Daydé & Pillé - Paris”. 108 năm đã trôi qua nhưng những hình ảnh của quá khứ dường như vẫn lắng đọng trên từng nhịp cầu.
19. Di tích có quy mô khai quật lớn nhất Di tích hoàng thành Thăng Long với diện tích khai quật rộng hơn 19.000m2 trên khu vực nằm giữa các phố Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn ở quận Ba Đình, là di tích có quy mô khai quật lớn nhất Việt Nam.
Quy mô này cũng thuộc loại lớn nhất ở Đông Nam Á, tiến hành các năm 2002 - 2003. Qua đó, tại đây đã phát lộ nhiều di tích lịch sử văn hóa vô giá nằm ở độ sâu từ 1m đến hơn 4m dưới lòng đất; lần lượt được phát hiện qua các tầng văn hóa với niên đại xa đến 1.300 năm (thời Đại La), 1.000 năm (thời Lý, thời Trần, thời Lê).
Đồng thời, hàng triệu di vật đào lên bao gồm các đồ cổ còn nguyên vẹn, hoặc đã bị vỡ nhiều mảnh song vẫn phục chế lại được, cùng với các mảnh vỡ vụn khác mang nhiều thông tin hữu ích; tất cả tính đến số lượng hàng triệu di vật soi sáng phần nào diện mạo của sinh hoạt và đời sống cung đình của vua quan và quý tộc thời Lý Trần và cả thời Lê.
Đến nay, di tích và di vật nêu trên của hoàng thành Thăng Long vẫn tiếp tục được các nhà khoa học, khảo cổ học, văn hóa học, kiến trúc, địa lý, địa chất ở Việt Nam nghiên cứu và thảo luận. Ngày 1/8/2010, UNESCO đã xếp di tích hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thứ 900 của nhân loại.
20. Viện nghiên cứu khoa học đầu tiên “Viện Viễn Đông Bác Cổ”là một trung tâm nghiên cứu khoa học, khảo cứu lịch sử, ngôn ngữ, khảo cổ học các nước Đông Dương và khu vực Viễn Đông, được thành lập năm 1901 (tiền thân là Đoàn khảo cổ học Đông Dương thành lập ngày 15/12/1898).
Nơi đây tập trung một số nhà Đông phương học của Pháp như linh mục - học giả Léopold Cadière, C.Maybon, Henry Maspéro, Pelliot cùng những học giả Việt Nam như Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên. “Viện Viễn Đông Bác Cổ”đặt dưới sự quản lý của Toàn quyền Đông Dương và sự chỉ đạo của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.
Đóng góp quan trọng của viện là đã sưu tầm, lưu giữ được số lượng lớn các văn bản Hán - Nôm của Việt Nam và giới thiệu lịch sử, văn hóa Việt Nam ra thế giới. Để lưu trữ và quảng bá các công trình nghiên cứu và hiện vật sưu tầm được, “Viện Viễn Đông Bác Cổ”thành lập một bảo tàng riêng do ông Louis Finos làm Giám đốc. Sau nhiều lần di chuyển, bảo tàng này được chuyển ra khu Đồn Thủy gần tòa Lãnh sự Pháp và sau này là “Viện Bảo tàng Lịch sử”.
xml:namespace??
xml:namespace??
xml:namespace??
xml:namespace??
xml:namespace??
xml:namespace??
xml:namespace??
xml:namespace??
xml:namespace??
xml:namespace??xml:namespace??
xml:namespace??xml:namespace??
xml:namespace??xml:namespace??
xml:namespace??xml:namespace??
xml:namespace??
Quỳnh Anh (TH)